CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG!
Lê Thị Hoài Niệm
Hồi tôi còn rất nhỏ, mỗi
chiều đi học về ngang nhà bà Tư Hường, gặp lúc nhà bà mở toang cửa để vô tình
nhìn vào, tôi đã vắt giò lên cổ chạy trối chết, vừa xách guốc chạy mà còn ngoái
cổ nhìn lại xem có ai đó rượt theo không? Vì trên bàn thờ nhà bà ngay cửa chính,
không có thờ hình ông Phật, ông Chúa hay ông Thánh nào cả, mà chỉ là một con mắt
to tổ chảng, sáng quắt, cứ như là nhìn chằm chằm vào người đang đứng trước nó,
có vẻ hăm doạ “hãy coi chừng qua nhé em!” Nhà Bà Tư Hường nghe đâu từ trong miền
Nam ra đây làm ăn, bà có gian hàng bán trái cây dưới chợ. Về sau má tôi cho biết
là nhà bà theo đạo thờ một con mắt, con mắt đó họ gọi là “THIÊN NHÃN”. Bà Tư là
người Tây Ninh và theo đạo Cao Đài…thờ chính là Thiên nhãn..
Thời gian đi qua và tôi
không còn cơ hội đi ngang qua nhà bà Tư nữa, vì đã vào ở thành phố Nhatrang. Để
rồi một lần ham vui theo cô bạn đi rong trong thành phố, mỗi đứa một chiếc xe đạp
đi nhong nhong, vô tình ngang một ngôi đền thờ, lần đầu tiên tôi thấy tên gì mà
dài quá mạng: “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Tòa Thánh Tây Ninh”. Đàng truớc có theo 3
lá cờ màu vàng xanh và đỏ. Hai đứa tôi tò mò dựng xe bên hông tòa thánh và bước
vào trong, một lần nữa tôi…tá hoả tam tinh khi thấy độc nhãn nhìn tôi chăm chăm.
Thì ra đã có lần chạy thục mạng rồi mà chưa ngán, lại đút đầu vô cái chỗ thờ
Thiên Nhãn, Ừ thì tòa Thánh Tây Ninh Đạo Cao Đài mà. Thế là hai đứa từ từ lẳng
lặng rút êm. Tôi thề rằng từ nay về sau …không bao giờ phải
nhìn
con mắt nữa, bị ám ảnh, sợ lắm.
Những ngày đi ghi tên học
ở Sài gòn, vào thập niên 70, những người bạn có rủ đi thăm “Tòa Thánh Tây
Ninh”. Họ nói nơi đó đẹp lắm, dù đường đi có hơi ngại, bị bọn du kích nằm vùng
của “mặt trận giải phóng miền Nam” (cộng sản) đắp mô thường xuyên, nhưng đi trưa
trưa có thể không bị ảnh hưởng, trong khi đường bay thì không có. Họ mô tả Tòa
Thánh là một kỳ công của người xây dựng, rằng họ xây lên bởi những lời cầu cơ mà
có, kiểu cách, kiến trúc, cảnh quan tất cả đều do…cầu cơ mà tạo thành. Bạn nói
thì cứ nói, tả cảnh thì cứ tả nhưng tôi tỉnh bơ thì cứ tỉnh, vì không muốn bất
quá tam ba bận sợ nhìn thấy…một con mắt thật to đó cứ như nhìn chăm chăm vào mình.
Nhưng tôi bắt buộc phải
đến Tây Ninh. Không phải để đi xem Tòa thánh Tây ninh, một “kỳ quan” của nước
Việt Nam thời bấy giờ theo như ý kiến của nhiều người đã từng đến đó. Họ nói ở đó có một khuôn viên đất rộng
vô cùng tận, và Tòa Thánh được xây dựng ở chính giữa, chung quanh rất nhiều những
cơ quan hành chánh, mà không có người vẽ lập lăng. Tôi đến Tây Ninh cũng không
phải để đi xem “Tha la xóm đạo”, một vùng đất được đi vào dòng nhạc tình cảm của
những người yêu nhạc thời bấy giờ, dù không biết vùng Tha la có gì đặc biệt. Bài
hát “Tha la xóm đạo và Hận Tha la”, lời thơ của Vũ Anh Khanh được nhạc sĩ Dzũng
Chinh phổ nhạc, đã khiến người nghe thật bồi hồi xúc động, thương cảm, tưởng tượng
được mối tình nồng thắm của người chiến sĩ một lần hành quân qua làng và cô gái
con chiên của Chúa. Nhưng rồi một ngày giặc giã lan tràn đến vùng đất Tha la,
ngôi thánh đường đã không còn nữa, người con gái thơ ngây của xóm đạo ngày nào đã
vĩnh viễn ra đi(?), người Lính trận năm nào vẫn còn miệt mài chiến đấu ở tận đâu
đâu, để Tha la quạnh hiu, buồn bã khiến cho người khách lãng du cũng ôm một nỗi
buồn thiên thu.
Tôi đến Tây Ninh vì phải
“làm dâu xứ lạ”.
Ngày ấy tôi cũng ngại lắm
khi biết chàng quê ở Tây Ninh. Nghe nói Tây Ninh “nắng cháy da người” cũng hơi
làm chùn bước chân tôi. Lời ông bà xưa thường nhắc nhở “Coi chừng ghét của nào
trời trao của đó, hay chạy trời không khỏi nắng!” Dù không ghét nhưng sợ thì cũng
gần như nhau. Nhưng biết sao bây giờ? Đúng là gia đình chàng theo Đạo Cao Đài và
thờ “Thiên Nhãn”, nhưng nhà chàng không thờ con mắt qúa to để người nhìn vào…sợ
hãi. Ba má chàng cũng là những người có “chức sắc” trong đạo, nên tôi từng nghe
tiếng niệm hương rất có vần có điệu như đọc thơ lúc trầm lúc bổng, cảm thấy hay
hay dù không hiểu chi nhiều: “Đạo
gốc bởi lòng thành tín hiệp, Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra, Mùi hương lư
ngọc bay xa, Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng, Xin Thần Thánh ruổi
dong cỡi hạc, Xuống phàm trần vội gác xe Tiên, Ngày ngày đệ tử khấn nguyền,
Chín từng Trời Đất thông truyền chứng tri, Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo, Nhờ
ơn trên bổ báo phước lành….!) Lúc đám tang cha mẹ chồng, con
cháu phải qùy lạy đến 108 cái lạy sau khi đọc kinh, nhưng may quá chồng tôi bảo
chỉ ngồi lạy cũng được. Những người trong họ đạo họ…quỳ hay quá, chắc lạy nhiều
nên…quen!
Tòa Thánh Tây Ninh nhìn
rất đẹp và kiên cố thật. Chỉ cần nhìn lên trần của tòa thánh là thấy cả một
khung trời tuyệt diệu. Không ngờ những người thợ ngày ấy (khoảng năm 1930, nghe
nói đa số là người Campuchia) họ có nhiều tài đến thế. Không có lập lăng, bản vẽ,
không mẫu mã gì hết, chỉ làm theo lời cầu cơ mà hình ảnh bên trong cứ như là của
hoạ sĩ tài ba vung cọ.
Phải nói là khí hậu xứ
Tây Ninh …nóng thật, nóng khỏi chê luôn, cho nên ông nhạc sĩ Trúc Phương không
ngại gì mà đưa vào nhạc của ông rằng thì là “Tây Ninh nóng cháy da người, mà trận
địa thì loang máu tươi”... Hồi đó, Tây Ninh cũng là điểm “nóng” của vùng gần biên
giới, nghe đâu trong tòa thánh cũng là nơi “dung thân” của nhiều chàng thanh niên
con nhà khá giả mà…ngại xông pha vào vùng lửa đạn, cứ vào tòa thánh làm “hiền tài”
gì đó thì xong ngay, khỏi trận mạc gì cả. Nhưng “chàng” nhà tôi thì phải đi Lính,
ra phục vụ tận ngoài Nhatrang, chứng tỏ không phải…con nhà khá giả, và muốn thi
hành nghĩa vụ người thanh niên thời chìến.
Ngoài Tòa Thánh, Tây
Ninh còn có thắng cảnh là Núi Bà Đen. Ôi cái tên nghe sao mà…đen đủi, như đa số
người dân ở đây, đất nóng khô cằn nên người dân hình như cũng khô khốc đen
thui, hay có phần có…gốc gác với người Campuchia?,. Nhưng sao tên núi không có
tên gì thanh cảnh mà lại gọi bà Đen? Thì ra, ở đây có có một truyền thuyết rất
ly kỳ, thương cảm. Truyện kể rằng, tại vùng ven núi này có một gia đình khá giả,
có cô con gái tên Thiên Hương cũng sắc nước hương trời, biết thêu thùa, chữ nghĩa,
nên gia đình cô rất thương quý và rất nhiều chàng trai cũng đến dạm hỏi lúc cô
đến tuổi cập kê. Và rồi một hôm cô đi lên ngôi chùa trên núi cúng bái, chẳng
may bị một nhóm người hung dữ vây hãm cô định làm xấu, thời may có …anh hùng cứu
mỹ nhân xuất hiện, và chàng trai đó được gia đình cô đền ơn nhận làm con rể nhà
giàu, dù chàng mồ côi cha mẹ, nghèo rớt mồng tơi, nhưng chàng có văn võ song toàn
nhờ vị sư trụ trì trên núi bao bọc, dạy dỗ. Nhưng rồi chiến tranh lan tràn, chàng
phải tòng quân giết giặc (hổi đó theo Nguyễn Ánh đi đánh quân…Tây Sơn) để cô
Thiên Hương ở lại nhà và cũng như lần trước, cô lên chùa cúng bái và bị bọn xấu
làm nhục, kỳ này không may vì chẳng có người cứu giúp, nên cô bèn nhảy xuống hốc
núi tự vẫn. Vị trụ trì trên chùa tìm được xác của cô và an táng dưới chân núi.
Nhưng cô rất linh hiển, có lẽ vì chết oan và còn trinh nữ? Truyền rằng cô đã hiện
lên đến…ba lần, lần đầu cô biến thành một người có mặt …đen sì, nhưng giúp đỡ rất
nhiều người qua cơn khốn khó, nên được người dân ở đó rất tôn kính và thờ phượng.
Lần thứ hai cô giúp mách nước cho Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm la xin cứu viện (Chuyện
này chắc là người miền Trung như người viết…không thích mấy?) và sau nữa là mách
nước cho Tả quân Lê Văn Duyệt(?)….Với những công trạng đó, người dân vùng núi Tây
Ninh đã đặt tên ngọn núi cao nhất miền Nam này là núi …BÀ ĐEN(?). Và chính núi
Bà Đen này cũng là nơi quân đội Mỹ đóng quân trên đỉnh núi, quan sát toàn vùng
trong những năm chiến tranh khốc liệt. Nhưng “kỳ lạ” thay, lưng chừng núi lại là
những nơi nằm vùng rất kiên cố của “mặt trận giải phóng miền nam”.
Đã có lần tôi cũng theo
người Tây Ninh leo núi bằng cách bám vào những tảng đá để leo lên (Sau này có cáp
treo, ròng rọc chạy mười mấy phút là đến đỉnh núi, có thể vào chùa mà cúng bái,
lạy lục). Phải “phục” những người ngày trước đã bỏ công xây cất ngôi chùa rất
khang trang, kiên cố trên đỉnh núi, nhưng với sức người, không biết họ làm cách
nào mà đem được những gạch, ngói, xi măng, tảng đá to lên tận đỉnh núi để xây
chùa. Khâm phục thật.
Sau này đường về Tây
Ninh không còn bị đắp mô, đặt mìn như trước nữa. Hồi đó, mỗi lần từ Sài gòn đi
Tây Ninh cũng mất mấy tiếng đồng hồ, vì cứ bị đắp mô trên đường, xe đò phải dừng
lại để những người Lính gỡ bỏ bom mìn, lấp lại đường nếu bị đào hố…, khổ sở vô
cùng và đường đi là những con đường đất trải đá xanh, mà chân bò chân trâu in hằn
đầy dấu vết vì xe bò phải chở củ sắn mì về nhà máy làm bột mì. Bây giờ đường lộ
thẳng băng, có hoa giấy hai bên đường sặc sỡ. Xe chạy từ Sài Gòn đến Tây Ninh cũng
chẳng còn xa là bao. Có đoạn chạy song song với con sông Vàm Cỏ đông cũng thơ mộng
vô cùng. Những đám rừng cao su được trồng thẳng tắp dọc hai bên đường trông thật
mát mắt không làm cho người đi trên đường sợ hãi như trước kia, những khu rừng
cao su là nơi ẩn núp của bọn nằm vùng cộng sản. Mấy chục năm “ăn cướp” thành công,
xây dựng lại cho dân dễ thở cũng là điều phải có.
May quá, tôi phải nhận
Tây Ninh làm quê hương thứ hai, nhưng không ở đó nhiều, chỉ là những lần về thăm
viếng, cúng giỗ, nên nhìn “người Tây Ninh” vẫn là những người tốt, nói giọng dễ
nghe và đối xử với nhau rất thân tình, thân ái, không có cảm giác…làm dâu xứ lạ!
Và nhà tôi cũng “không” phải thờ thiên nhãn, để tôi phải giật mình thức giấc và
nhớ chuyện năm nào chạy trối chết vì cứ ngỡ có con mắt nhìn mình dù không làm gì…sai
trái. Đúng là “chạy trời không khỏi nắng” thật, nhưng cái nắng đã giảm dần cường
độ khi chàng Tây Ninh vẫn làm việc ở quê tôi, Nha trang phố biển hiền hòa và
quanh năm mát mẻ.
Lê thị Hoài Niệm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét