Thứ Hai, 17 tháng 11, 2008

Thơ :TRỰC THĂNG HỘI NGỘ

Kính thưa Anh! người Không quân năm cũ
Một thuở nào thật uy vũ hiên ngang,
Vượt không gian không nhờ cánh đại bàng.
Nhưng gan dạ với trực thăng U-H.

Quê miền Tây với ruộng đồng bát ngát,
Trường sơn kia xanh rừng núi bạt ngàn,
Dọc miền Trung vùng đất sỏi khô cằn,
Này Bến hải, miền địa đầu giới tuyến.

TRỰC THĂNG bay, khác nào chim én liệng,
Quân bạn cần, Anh tình nguyện giúp ngay,
“Bắc Bình đây! cần quí bạn cứu nguy,
Vô khéo nhé coi chừng phòng không địch!”

Thám sát, Nhảy dù, Sư đoàn, Biệt kích,
Mỗi lúc hành quân “trực thăng vận” góp phần,
Tiếp tế, tản thương các Anh quá ân cần,
Quân Bạn thắng, Anh chung niềm hãnh diện.

“Song Chùy” (213) đây! bạn “Thiên Ưng”(223)
hãy cùng bay tiếp viện,
“Lôi Phong”(247)-“Sói Thần”(253) hay
Pilot “Cứu Tinh”(257)
Với “Hoàng Ưng”(239) những tên gọi thân tình.
Căn cứ vùng Một, Anh đi về sớm tối.

Đây Nha trang “Long Mã”(219) xưa chói lọi,
“Thần tượng”(215) một thời cũng đã lên ngôi
Muốn biết về Anh chỉ nhìn ảnh Chú Voi
Là nhớ mãi, người “không quân yêu dấu!”


Tôi biết về Anh, người Anh hùng một dạo,
Những trận đánh kinh hồn ở An-Lộc, Bình Long,
Trực Thăng- Anh, nguồn hy vọng sau cùng,
Giúp quân Bạn giữ niềm tin chiến đấu.

“Lôi Thanh”(237),“Lôi Thiên”(251),
“Lôi Bằng”(245),“Lôi Vũ”(221)
“Lôi Điểu”(223),“Lôi Vân”(231)là tên gọi phi đoàn,
Những đơn vị góp chiến tích vẻ vang,
Vào Quân sử của Vùng Ba chiến thuật.

Người lính Bộ binh quá nhiều cơ cực,
Đồng ruộng bạt ngàn nước nổi quanh năm,
Mỗi bận hành quân áo trận ướt dầm
Vùng Bốn đó, nơi quá nhiều kinh rạch.


“Trực thăng vô!” cánh quạt kêu xành xạch,
Lính reo mừng đâu phân biệt “Ác Điểu”(225)
hay “Xà Vương”(255),
“Thần Điểu”(217),“Thần Chùy”(211) hay
“Hồng Điểu”(259) thân thương,
“Mãnh long”(249),“Hải Âu”(227) Ôi những
người bạn quí!

Rừng núi Pleku, Anh “Sơn Dương”(235) vừa ý(?)
Sao“Lạc Long”(229)...vương cũng bỏ biển lên rừng?
Rồi “Mãnh Sư”( 243) cũng tìm chỗ tạm dừng,
Phù Cát đó, nơi “Thiên Bằng” (241) thẳng tiến.
*
* *
Bao năm qua từ khi tan cuộc chiến,
Anh mất rồi thuở én liệng trời cao.
Nhưng trong tôi, Anh còn đó chiến bào,
Dù Pilot hay Mê-vô, Xạ thủ.

Ba mươi hai năm, quãng đường dài quá đủ,
Để Anh – Tôi cùng hội ngộ một lần,
Thời gian qua dù thân xác hao mòn,
Nhưng kỷ niệm vẫn trong Anh nồng thắm (?)

Về đây Anh! miền Houston nắng ấm,
Chào đón Anh bằng tất cả chân tình.
“Một thời không quên” thuở trai trẻ chúng mình,
Cùng các chị. Hãy về tham dự nhé!!!
31/3/2007

Thứ Năm, 6 tháng 11, 2008

xin góp lời cầu nguyện

Cậu bé con hơn mười tuổi, ôm cứng lấy người mẹ không muốn rời, hình như bé biết lần ra đi này khó còn cơ hội gặp lại mẹ mình, khó mà nghe được tiếng mẹ gọi về ăn cơm dù là những chén cơm độn bắp độn khoai, không còn được đùa giỡn cùng lũ em mới lớn, không còn nghe cha gọi ngồi vô chỗ học bài…, trong khi người cậu đứng bên cứ cầm tay hối thúc: nhanh lên, nhanh lên, không chần chờ được nữa!.
Cậu bé buông mẹ ra, vừa bước đi được vài bước. lại chạy a trở vào lòng mẹ mà giùng giằng nói :Con không muốn đi! Con không muốn đi!


Người mẹ cắn chặt hai hàm răng không để nước mắt mình tuôn chảy, hai tay ôm xiết chặt đứa con vào lòng, một cử chỉ vuốt ve trìu mến, nửa muốn giữ con lại, nửa muốn con ra đi, một giằng co xâu xé mãnh liệt từ trong tận cùng sâu thẳm của buồng tim, cuối cùng, gượng nhẹ ôn tồn dỗ dành đứa bé:- “Hãy theo cậu đi chơi, để ba má lo cho mấy đứa em con rồi ba má sẽ gặp con sau, nhớ nghe lời cậu nghe con, cố gắng học hành cho nên người, đừng để cậu phải lo lắng và ba má buồn nghe con!” Trong khi người cha đứng bên trong khung cửa, mắt cứ ngước lên trời, như thầm van vái trời cao hãy ban phước lành cho đứa con trai đầu lòng của họ ra đi được xuôi chèo mát mái, cùng lúc ngăn giòng nước mắt chực chờ rơi .
Và Trời đã thương tình, đẩy đưa chiếc thuyền con mong manh có cậu cháu đứa bé vượt cả một đại dương mênh mông với muôn vàn sóng cao gió cả nguy hiểm trùng trùng , cuối cùng cũng đến được bến bờ Tự Do.

Thời gian trôi nhanh. Cậu bé con tên Nhân ngày nào bây giờ là một thanh niên tuấn tú. Sống trên đất Mỹ nhưng nhớ lời mẹ dặn và nhờ sự khuyến khích của người cậu, nên đã chăm chỉ học hành, và công việc đang làm là “Phó giám đốc” một ngân hàng trong thành phố. Nhân đã lập gia đình và có một cháu gái vừa lên hai tháng tuổi, và Nhân chính là con trai đầu lòng của anh chị Nghĩa - Hạnh, những bạn học cũ năm nào.
Bao nhiêu năm qua, từ những ngày anh còn trong trại tù Cộng sản với tội danh “ngụy quân”, mà là tên ngụy quân hắc ám, vì đã được “đế quốc Mỹ” huấn luyện để về “chống phá nhân dân”. Chị là con nhà “tư sản mại bản”, nên bị tịch thu tài sản, bị đấu tố liên miên. Trong sáu năm ròng rã đó, chị một mình tất tả đi thăm nuôi chồng, lo lắng cho đàn con bốn đứa còn rất nhỏ dại. Tuy anh chưa được trả về, nhưng chị đã lăn lộn tìm đường, bắt mối để cả gia đình vượt thoát theo làn sóng người vượt biển theo lời anh dặn. Nhưng số mạng trớ trêu, những dấu chỉ tay trong bàn tay năm ngón của chị không có đường “xuất ngoại”, nên cả chục lần đi, lúc thì chạy trốn thục mạng, lúc bị bắt giam hàng tháng trời, cuối cùng chị được rời khỏi nhà tù trở về nguyên quán nhờ đám trẻ thơ. Nhưng chính trên quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đã không phải là chốn dung thân cho một gia đình nhỏ đã nhiều lần trốn bỏ ra đi. Khi anh ra tù, anh chị tìm về miền Nam làm thuê làm mướn để sống qua ngày, vì số tiền dành dụm được đã mất sạch vì những chuyến vượt biên…


Trong những năm gần đây, dù “nước nhà đã được đổi mới”, nhưng anh chị cũng đã vượt không biết bao gian lao, cơ cực, nhiều khi phải trốn chui trốn nhủi vì những hệ lụy trong quá khứ cứ mãi đuổi theo, cùng lúc tìm kế sinh nhai để nuôi dưỡng ba đứa con còn lại được nên người và hiện tại hai cháu gái đã thành gia thất .
“-Bây giờ, nhờ Trời thương, tụi tao đã đỡ khổ lắm rồi, tin cho mày mừng!”
Tôi mừng lắm, vì sau bao nhiêu năm trời xa xứ, ngóng về quê xưa tìm kiếm bạn bè, nghe tin kẻ mất người còn, người ăn nên làm ra thì ít mà kẻ khốn khó thì nhiều, nên nghe chị báo tin vui, tôi vui lây niềm vui với chị, chị còn nói cháu Nhân hiện đang có nhà ở cùng thành phố với tôi, sau một thời gian đi đi về về Cali huấn luyện người cho cơ quan xong thì sẽ ở luôn bên Houston. Và cũng “hẹn hò” sẽ đến ở với chị vài hôm để kể chuyện …đời xưa, khi tôi có dịp về lại VN.

Nhưng, ngay ngày sau, chỉ một ngày thôi, cú điện thoại viễn liên từ trong nước gọi ra của chị làm tôi giật bắn người : “Thằng Nhân vừa bị tai nạn xe hơi trong lúc đi làm về ở Cali, nghe nói nặng lắm, không còn biết gì nữa! vợ chồng tao đang làm đơn xin đi Mỹ thăm nuôi con..” Những cuộc gọi viễn liên từ Texas sang Cali thăm hỏi, cũng chỉ để biết tin “Cháu đang nằm trong phòng cấp cứu, vì đốt xương sống cổ của cháu bị hư, mặc dù não bộ vẫn nhận thức tốt, nhưng cháu nằm liệt và không nói được, chỉ mấp máy đôi môi, thở bằng ống ..tình trạng nguy ngập….”
Một gia đình ở tại Mỹ, nếu gặp hoàn cảnh thương tâm như vậy cũng đã xất bất xang bang, huống gì anh chị Nghĩa, vừa chân ướt chân ráo đến xứ Mỹ là phải vào túc trực trong nhà thương. Nhà cửa không có, xe cộ cũng không, tiếng nói xứ người tịt mù, chỉ biết nương nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình người em, mà nhà người em thì xa bệnh viện cả giờ lái xe, lại phải đi làm ca hai. Thế là mỗi sáng anh chị phải nhờ người chở vào nhà thương, ngồi bó gối nhìn con thoi thóp, một miếng cháo cũng không màng, còn đau xót nào hơn cảnh cha mẹ già sau bao năm gặp lại con, chỉ đươc nhìn con mấp máy đôi môi mà đoán xem con muốn nói câu gì, để nhìn đứa con nằm liệt giường, đến bàn tay ấp ủ yêu thương của cha mẹ cũng không còn có cơ hội nắm lấy …!
Một may mắn tình cờ, một người bạn, một đồng hương: Anh chị Bổng, những người có tấm lòng rộng mở như dòng sông Ba mùa nước nổi, sau khi biết được hoàn cảnh của anh chị Nghĩa, đã đón hai vợ chồng về nhà trú ngụ, anh chị phụ đưa đón tới bệnh viện gần nhà và cơm nước sẵn sàng vào mỗi tối. Một nghiã cử cao đẹp vô vàn, trong thời buổi kinh tế khó khăn. Một bông hồng cho người đồng hương tốt bụng.

Hôm nay cháu nóng sốt hơn hôm qua, tình trạng không mấy khá!...” chẳng phải vì bác sĩ xứ Mỹ này không giỏi, nhưng tình trạng bệnh lý của cháu quá ngặt nghèo, lại thêm tâm bệnh nữa cũng không chừng, nghe nói- mới nghe nói cũng đã thấy tím ruột người nghe: rằng người vợ trẻ của cháu Nhân đem gửi đứa con vừa hơn 5 tháng tuổi cho .. ông Nội trông coi (dù đang ở nhờ nhà bạn, cũng chẳng biết cô sang Ca ở tại đâu?), để đi làm. Cô ấy phải làm gì khi người chồng đang trong cơn hoạn nạn thập tử nhứt sinh, khi mà công ty đã trả mọi chi phí sinh hoạt hàng tháng cho gia đình đã được hơn 3 tháng? Nhiều lúc chị Hạnh ngồi chờ mãi chẳng thấy bóng dáng cô con dâu, mà anh thì bảo không vô nhà thương được vì bận giữ cháu cho má nó vào thăm chồng(?) Hình như cháu Nhân biết. Nhưng cháu không nói được nên lời, chỉ ứa nước mắt mà mơ mơ màng màng nhìn vào cõi xa xăm, cháu có suy nghĩ gì làm sao cha mẹ biết(?), nhất là những lúc cháu nghe được lời người vợ trẻ, muốn Bác sĩ …rút ống, để cháu sớm ra đi được nhẹ nhàng. Chỉ thương cho anh chị Nghiã, thương cho cháu Nhân, bao nhiêu năm trời, tưởng con gặp được cha mẹ trong niềm hân hoan vui sướng, đón đưa cha mẹ đi đó đi đây, cho cha mẹ hưởng trọn niềm vui đoàn tụ trên đất nước tự do, dân chủ, một xứ sở giàu mạnh nhất hành tinh này, một ước muốn mà ngày xưa cha mẹ cậu đã không bao giờ vươn tới được ….


Nhưng không, ngày ngày anh chị phải nước mắt đoanh tròng, ngồi nhìn con mà bất lực, dù y khoa xứ Mỹ tiên tiến nhất trần gian. Người ngoài cuộc biết làm gì hơn là dâng lời cầu nguyện đến những đấng tối cao dù Đức Chúa hay Đức Phật hoặc Đức Thầy….Nhưng tất cả đã vượt thoát khỏi tầm tay, bao nhiêu buồn thương, đau xót đã dồn cháu Nhân đến đọan cuối cuộc đời, cháu đã nhắm mắt buông xuôi trong tiếng nấc nghẹn ngào chết lịm của người mẹ già, cái đau xé ruột của người cha và sự bàng hoàng của những người quen biết, nhưng vẫn chưa thấy bóng hình của người vợ trẻ(?). Cháu Nhân đi nhưng mắt vẫn mở trừng trừng, như nuối tiếc, như uất hận, như biết mình bất lực không còn làm được gì trước sự vắng mặt của người vợ đầu ấp tay gối mấy năm qua. Có lẽ cháu Nhân chờ, chờ đợi một tiếng gọi thân thương từ bờ môi người vợ trẻ, một ấp ủ thương yêu của mối tình đầu trân quí với một đám cưới rộn ràng, rình rang từ xứ Mỹ về lại tận Việt nam, vì cha mẹ chú rể không thể hiện diện trên xứ sở này. Nhưng tất cả đã muộn.

Ngày tang lễ “hỏa thiêu” cháu Nhân, rất đông bạn bè, thân hữu đến đọc kinh cầu nguyện tiễn đưa. Và cả những người chưa từng quen biết, nhưng nghe đến câu chuyện tai nạn thương tâm cũng tìm đến đốt nén nhang tiễn biệt, làm ấm lòng anh chị Nghiã nơi đất lạ quê người. Qua điện thoại viễn liên tôi biết được điều đó..
 
Nhưng nỗi đau mất con còn đang cháy nát tâm can, thì nỗi buồn xa cháu tưởng chừng như vĩnh viễn. Người con dâu sau tang lễ của chồng, đã bồng đứa con thơ đi mất dạng, không để cho anh chị Nghĩa có cơ hội bồng ẵm, nâng niu đứa cháu nội của mình dù một ngày một buổi, thay thế hình bóng đứa con trai không bao giờ tìm lại được.
Mày tìm dùm tao thử con dâu tao nó ở chỗ nào? nghe nói nó cũng ở Houston, căn nhà thằng Nhân đã mua chừng một năm nay trước khi nó bị tai nạn, mua để đem con vợ và cha mẹ vợ của nó sang ở…” Bộ chị đùa sao? Ở xứ Mỹ này muốn tìm một người có địạ chỉ hẳn hòi thì may ra, còn nói khơi khơi biết đâu mà kiếm.

Tôi hỏi chị có biết chút manh mối gì không? chỉ còn nghe tiếng khóc. Chị nói, ngày cháu Nhân còn sống, cháu chỉ gọi điện thoại về, và nói đã mua nhà rất lớn ở Houston, và đưa vợ với gia đình nhà vợ sang ở, còn mở tiệm “Nail” cho người mẹ vợ nữa, vậy thôi! Giờ thì cháu Nhân đã nhắm mắt xuôi tay đi mãi không về, còn biết tìm ai để hỏi, khi mà người vợ trẻ và gia đình nhà vợ của cháu như muốn cắt đứt mọi liên hệ với gia đình chồng? cho nên ngay từ những ngày cháu mới vào bệnh viện, chưa bao giờ thấy bóng dáng họ, hoặc một câu hỏi thăm nom, an ủi., một điều mà anh chị cứ thắc mắc tuy chưa tìm ra câu giải đáp, dù rằng đến ngày ‘hỏa thiêu” cháu Nhân , họ có đến để…khóc đưa tiễn biệt!

Trước khi anh chị từ giã nước Mỹ trong tâm trạng buồn-thương, tiếc-hận để trở lại VN, mang theo phần tâm linh với hộp tro cốt của người con trai yêu quí. Chúng tôi, một nhóm bạn cũ, cùng tất cả mọi người quen biết dù thân hay sơ, đã chia xẻ niềm đau cùng tận, hết lòng dâng lời cầu nguyện, nguyện cầu cho anh chị giữ vững được niềm tin, niềm tin vào sự huyền diệu của các đấng tối cao, trợ giúp anh chị có đầy đủ nghị lực để vượt thoát được mọi khó khăn đang quyện chặt vào cuộc sống hằng ngày trước mặt.

Nguyện cho linh hồn của cháu Nhân đừng lưu luyến chi chốn dương trần đầy bi hận, được sớm siêu thoát về chốn vĩnh hằng, nơi mà cháu sẽ không còn chờ đợi, không uất ức thương tâm trước bất cứ một cảnh ngộ nào, cháu hãy buông hết để nhẹ nhàng thanh thản mà ra đi, hãy xem nơi này chỉ là cõi tạm, và hãy tha thứ cho những người đã làm cho cháu buồn khổ. Với cuộc sống thế gian, tiền bạc có thể là nhu cầu cần thiết nhất trong đời, người trần tục sao chẳng vướng lòng tham(?). Nhưng trước cảnh ngộ của cháu, bạc tiền chỉ là những thứ phù du, có đó rồi mất đó, “khi ra đời không mang tới, chết không mang theo”, nên khi lìa khỏi cõi trần, chỉ có mỗi một bộ quần áo tẩm liệm trong chiếc quan tài buồn, chứ có thêm được gì đâu!!!

Mong rằng anh chị Nghĩa cố tìm kiếm trong mớ giấy tờ liên hệ đến cháu Nhân, may ra tìm được cái địa chỉ nhà cô con dâu. Chừng ấy, biết đâu những bức thư tình cảm, từ VN gửi qua thăm hỏi, sẽ khiến cô con dâu …nghĩ lại mà nhớ đến cha mẹ chồng, đến gia đình nhà chồng với lòng thương cảm, hối hận. Để rồi mai kia mốt nọ đứa bé gái mồ côi cha khi mới ngoài sáu tháng tuổi, lớn lên còn biết được dòng dõi, tông đường, mà tìm về nguồn cội. Mong lắm thay!!!

HUN HÚT ĐƯỜNG BAY

Anh thương!

Văng vẳng trên không trung là tiếng động cơ của chiếc phản lực đang bay xa dần thành phố, mang theo những người vừa rời bỏ quê hương thêm một lần trong đời, và có khi không còn dịp quay về lần nào nữa cả, cùng lúc mang theo một ít người lần đầu tiên được ngồi máy bay tìm đến vùng đất mới, để cho người ở lại muôn vàn nỗi nhớ thương, thèm thuồng, ước muốn. Như người bạn mà em vừa đưa tiễn ra đi, dù cô ấy khóc, nhưng giọt nước mắt lại lóng lánh niềm vui, cô ra đi theo diện đoàn tụ gia đình, một người đàn ông tốt bụng, tuy có hơi lớn tuổi, về quê nhà cưới vợ và đã làm đơn bảo lãnh cô ta đem sang xứ Mỹ.

Em ra về hòa nhập vào lòng đường ngổn ngang, bận rộn. Người đâu mà đông quá, kẻ lên người xuống dập dìu, tấp nập, ồn ào không lúc nào ngưng nghỉ. Đủ mọi loại xe cộ chen lấn nhau, từ chiếc xe đạp cà tàng, chiếc xe Honda hai bánh, chiếc xe tải chất đầy hàng hóa, đến chiếc xe hơi đắt tiền mới tinh, tất cả đều tranh giành lối đi bóp còi inh ỏi. Bụi đất, khói xăng chờn vờn, lởn vởn đầy khắp không gian khiến những người đàn bà–con gái, thậm chí có những đứa nhỏ cũng bịt cả mặt mày, chỉ chừa có hai con mắt y như những tay võ sĩ NIN-YÀ trong phim kiếm hiệp.

Người đông, đất hẹp, nắng bụi, mưa lầy lội, dơ bẩn v.v.v., là những gì mà những người nghèo khổ, bình dân đang hứng chịu ở cái thủ đô này, nơi mà em vừa đến đây để tiễn đưa một người bạn ra đi nước ngoài, và cũng để chờ đón một người bạn từ xa về thăm lại quê nhà. Dù người bạn có vô tình than vãn: “sao bà ở chi trong hẻm để tôi phải tìm mãi mới tới được nhà?”, em chỉ biết cười nhưng cổ họng thì nghẹn cứng nên tiếng cười tắt lịm, để rồi sau đó một làn sương mỏng tự giăng ngang tầm mắt, đôi tay không lạnh nhưng cứ run run như người đang lên cơn sốt rét kinh niên.

Em cầm phong thư trong tay nhưng hồn lại bay bổng đâu đâu, nửa tin nửa ngờ, nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận một sự thực phũ phàng. Em cố mở thư ra đọc và những hàng chữ thì cứ nhảy múa nhạt nhòe, dù với thật nhiều cố gắng, cũng phải một lúc lâu mới đọc hết được vài lời thăm hỏi ngắn gọn của anh. Ôi nét chữ thân thương quen thuộc ngày nào em từng ấp ủ, nâng niu, mừng vui, sung sướng mỗi lần người phát thư dừng lại trước cửa nhà để réo gọi tên em ra nhận thư xa, những bức thư viết từ những trung tâm huấn luyện Lackland Air Force Base, Fort Wolters, Fort Hunter… trên đất nước Hoa Kỳ xa lắc xa lơ, đến những lá thư gửi từ khu bưu chính trên đất nước nhà khi anh thuyên chuyển về miền Nam, những lời thư nồng nàn ấp ủ yêu thương, những nhớ nhung tha thiết, những chờ đợi lo âu, những hứa hẹn tương lai sẽ có nhau trong đời, không bao giờ xa cách…


Nhưng mãi đến hôm nay, sau ngần ấy năm dài không nhìn thấy nữa, em lại nhận được lá thư tay này, lá thư do người bạn tìm đến trao tận tay, kèm theo một tấm thiệp cưới và hai tờ giấy bạc một trăm đô la Mỹ. Em mừng! mừng lắm anh ạ! nhưng hai hàng nước mắt cứ lăn dài xuống má, làm mặn cả bờ môi, làm chẹn ngang vòng khí quản. Phải chăng đây là một lần chợt nhớ từ ngõ ngách nào đó của trái tim anh còn sót lại? một xót xa; áy náy; một an ủi đắp bù? Và rồi em lại ngậm ngùi nuối tiếc: phải chi những đồng tiền này có thể mua được thời gian! Anh biết đó: “Thời gian, thời gian luôn vô tình đối với cuộc sống thế gian, nhưng lại dài vô tận đối với người mong đợi!”.Em vô tình nên chẳng nhớ được câu nói đó của ai.




Mới đó mà đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, kể từ khi anh hốt hoảng tìm đến nhà em để từ giã ra đi, phi đoàn anh phải “di tản” sau một thời gian dài bị cuốn hút vào cơn trốt xoáy. Đã bao phi vụ “cứu lính, cứu dân”, cuối cùng anh cũng phải ra đi, anh đi xa vẫn còn ngoái cổ lại nhìn để thấy em chôn chân tại chỗ, ngẩn ngơ, ngơ ngẩn như kẻ không hồn, khi giật mình tỉnh ra, em đã phóng xe Honda chạy vội theo, dù đường sá lộn xộn, người chạy tới kẻ chạy lui tìm đường lánh nạn, lính từ xa đổ về thành phố quá đông, và nạn cướp giật, bắt hiếp đàn bà con gái đã xảy ra ngay trên đường phố nên nguy hiểm trùng trùng. Vậy mà em cũng đã chạy đến nơi, đến để thấy cổng phi trường đóng chặt, để thấy cả rừng người chen lấn, dẫm đạp lên nhau, để nghe những tiếng la hét, kêu réo, khóc kể, hăm dọa, dữ dằn với nhau, để thấy mạng sống con người vô cùng nhỏ bé, thừa thãi trước họng súng đen ngòm, để thấy nỗi bất lực, tuyệt vọng khi người thân yêu phải chia cắt nhau chỉ có mỗi một cổng rào, và bàn tay thì quá ngắn để nắm lấy bàn tay. Em co ro đứng lặng nhìn những chiếc phi cơ rời bãi đậu cuối cùng đến hun hút đường bay, và cũng ngần ấy năm em cứ mỏi mòn trông mong dù trong vô vọng. Em biết! nhưng sao cứ mãi ngóng chờ.

Tấm thiệp cưới quá đẹp, anh gửi bạn mang về để báo tin sắp gả con gái lấy chồng. Em mừng cho cháu gái, cho hạnh phúc của cả gia đình anh, nhưng sắt se, tê dại cả cõi lòng mình. Kỷ niệm xưa không mời gọi sao cứ mãi hiện về, ước mơ nào không xóa sao đã vội tan, phải chăng vì những dòng chữ cứ hoài nhảy múa nên em không nhìn rõ, chỉ lờ mờ thấy được tên anh và những tên người hoàn toàn xa lạ, em đâu có muốn khóc, em sợ cả những giọt nước mắt dù tủi hờn hay nuối tiếc.

Cũng tại em ngày đó đã quá ngu ngơ, khờ dại, đã sợ sệt vu vơ, do dự trù trừ nên đã để vuột mất anh. Em đã không nỡ từ bỏ gia đình cha mẹ anh em, từ bỏ quê hương, để rồi chính trên quê hương, nơi từng cưu mang nuôi lớn em, đã giết em lần mòn trong lo âu, sợ hãi. Giờ còn lại gì ngoài một tấm thân tàn tạ và một tình yêu trống vắng? Dù em có gọi tên anh đến ngàn lần thì cũng là những tiếng kêu trong gió, có ngọn gió nào dài hơi giúp mang những tiếng kêu của em vuợt cả một đại dương, hay sẽ rơi rớt vào lòng biển cả?


Không biết vô tình hay cố ý mà người bạn ngồi kể cho em nghe về cuộc sống “đời thường” của anh bên đó, người Pilot Trực thăng thuở nào, em đã rất hãnh diện được ngồi sau yên chiếc xe Honda cũ, cùng anh rong chơi khắp mọi nơi, khoe với bạn bè rằng “người hùng không gian” của ta như thế đó, Bạn nói anh bây giờ là “Ông chủ cửa hàng tạp hóa” nhưng em vẫn chưa hình dung ra nổi, cô ấy còn khen anh là một ông “nội trợ tài tình”. Em gặng hỏi mãi chỉ nghe được tiếng cười dòn và câu đùa : “số mày xui nên không được Ổng nấu cơm cho ăn hàng bữa!”.


Thật thế sao anh? Ngày đó, mỗi lần anh đến nhà chơi, những bữa cơm nhà em đã là điều mơ ước trong anh, em sẽ là người vợ đảm đang “cơm bưng nước rót” để bù với những bữa cơm nhà bàn trong những tháng ngày huấn luyện ở quân trường, và những gói gạo sấy, những gói mì nước nóng sau những hôm đi bay về muộn. Vậy mà…!

Bao năm qua em vẫn ao ước được biết tin tức về anh, hay mơ ước xa hơn là được gặp anh một lần trong đời, để được gục đầu trên vai anh mà khóc, mà kể lể hết những nỗi nhớ mong, những vui buồn đau đớn, xót xa tủi nhục trong những tháng ngày nghiệt ngã ở quê nhà, những tháng ngày các anh ra đi bỏ lại phố thị tiêu điều, hoang vắng. Em nhớ quay quắt những kỷ niệm trong suốt tháng anh hành quân biệt phái về đây, ngày nào cũng nghe anh kể chuyện, rằng các anh đã “bốc” không biết bao nhiêu người trên đường di tản về đến N.T. Có những hoàn cảnh thật thương tâm, có người sanh con rơi rớt dọc đường v.v.v., những Pilot trực thăng, “người đến bãi đáp đầu tiên và là người rời chiến trận cuối cùng” như lời anh vẫn tự hào về những phi vụ của các anh ngày đó, những chiếc trực thăng cũng là bạn của dân, nhất là những khi cộng quân nã pháo vào thành phố, tiếng “xành xạch’của trực thăng bay lên, làm người dân mừng rỡ, tin tưởng và vững lòng đi vào giấc ngủ muộn.


Những ngày các anh từ giã ra đi, thành phố tiếp với nỗi đau mà người dân phải chịu đựng, sợ hãi từ những kẻ bên kia vừa la oang oang chiến thắng, để đến nỗi những người may mắn được ra đi cùng một lượt với các anh, đã làm “lễ truy điệu” cho Thành phố đã chết, (khi họ về thăm lại chốn xưa đã kể cho nghe) trước khi cả nước bị chôn mất hoàn toàn.

Nhưng thôi anh ạ! Dù tưởng rằng em đã chết mà không chết thật sự ngoài đời từ tháng Tư năm đó, thì trong anh, em cũng đã chết tự lâu rồi. Lời thư muộn hôm nay, với em, khác chi ngọn đèn dầu bất lụn chợt bùng lên và sẽ tắt ngấm tức thì…


Bây giờ quê em là mùa biển động, anh có còn nhớ biển Nha trang, nơi chốn một thời anh đã đóng quân trước khi về miền Nam nước nổi?, Và đã bao nhiêu lần chúng mình hẹn hò nhau, nơi bắt đầu cho một mối tình của chàng không quân đi thuê nhà trọ và cô cháu gái bà chủ nhà.

Ngày đó, những ngày thơ mộng nhất, đã bao năm qua em vẫn ấp ủ những kỷ niệm yêu thương như là những báu vật lớn nhất trong đời. Mỗi chiều về, nếu có chút thời gian rảnh em thường tìm ra bãi biển, để tìm lại dấu chân trên cát, để nhớ ngày ấy anh hay nhìn làn sóng lăn tăn vuốt nhẹ đôi chân trần, đôi bàn chân anh vẫn mân mê, ve vuốt và ước ao có một ngày, dù chỉ là lời dỗ ngọt bông đùa rằng “anh sẽ xây hồ bán nguyệt cho em vào rửa chân”. Anh còn nhớ không? và cũng đôi bàn chân ấy bây giờ em đang dẫm bừa lên làn cát mỏng, dẫm đạp luôn lên cả những hang ổ của con dã tràng, những con dã tràng cứ thích xây lâu đài trên cát, và anh thì thích nhìn em chạy bắt đem về nâng niu, vuốt ve, và thì thầm vào tai chúng “sao chúng mày quá dại?” Em và con dã tràng hình như có quá nhiều điểm tương đồng, dã tràng vẫn kiên tâm xây lâu đài trên cát dù biết rằng chỉ một cơn gió mạnh từ ngoài xa thổi vào, là lâu đài tạo dựng bao lâu sẽ đổ ụp tan tành, rồi bị dòng nước biển cuốn ra xa mất hút. Còn em, sao cũng một mình đi trên biển vắng để nghe đắng cay xé nát tim mình, em thích đến nơi này vào mùa biển động anh ạ! có mấy ai trọn tình lại thích nhìn biển dậy sóng bao giờ?...

Lời thư của Mẹ






Việt Báo Chủ Nhật, 12/16/2007
Tác giả: Lê thị Hoài Niệm
Bài số 2178-1970-745vb8161 207*Tác giả tên thật là Lê Phan Tuyết, hiện là cư dân Houston, Texas. Trước 1975, dạy học tại Nha Trang. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của bà là thư gửi con gái, một Nữ sỹ quan hải quân Hoa Kỳ đang phục vụ trên tầu U.S.S Gunston Hall, thuộc hạm đội Năm ở Đại tây dương.

* Con yêu,Houston hôm nay nắng vẫn lung linh như khi Ba Má tiễn con vào tận trạm cuối cùng cho hành khách lên phi cơ hôm ấy. Trong nắng, Má như đang thấy lại giọt nước mắt buồn của người Mẹ phải xa cách con gái mình, nhưng cũng thấy lại nỗi vui, niềm hãnh diện về con của Ba Ma. Má vẫn nhớ mãi buổi chiều đẹp trời tại thính đường của trường đại học Rice, nơi mà Ba Má vừa ngừng xe nơi bãi đậu, đã thấy bóng dáng oai hùng của những quân nhân Mỹ trong bộ lễ phục trắng đi tới đi lui. Trước đây, Má chưa bao giờ dám nghĩ tới việc một trong những Sĩ quan của quân đội Hoa kỳ, một quân đội hùng mạnh nhất trên thế giới, lại là đứa con gái đầu lòng của Má và Má đã khóc, nhưng là giọt nước mắt sung sướng, hãnh diện khi vị Đại úy tuyên đọc tên con, rồi họ mời Ba Má lên khán đài gắn cấp bực "Thiếu úy hải quân" cho con.





Má đã xúc động đến run tay khi gắn cấp bậc trên cầu vai bộ đại lễ màu trắng Hải quân của con. Và rồi sau đó, được nhìn con mặc bộ quân phục nữ Sĩ Quan Hải quân Mỹ oai nghi, trong tư thế đứng nghiêm chào vị Đại tá, cất lời tuyên thệ trước hàng trăm ánh mắt đang hướng về con, và khi tiếng kèn thúc quân cất lên, con đã hiên ngang bước đi dưới hàng kiếm chào uy dũng. Chỉ mới hai tuần trước đó thôi, Má đã thức dậy lúc năm giờ sáng, co ro trong chiếc áo lạnh, ngồi lên xe, cùng con chạy đến văn phòng "Navy R.OT.C" trong "Rice University", để con dự thi lần chạy cuối cùng. Má đã ngồi yên trong xe, nhìn theo con nhập vào toán Marine và Navy đang chạy ra bãi tập, chắp tay cầu nguyện cho con "pass" cuộc thi. Và rồi, sau những giờ chờ đợi, Má đã lặng người khi thấy con từ xa về lại mà miệng không có nụ cười. Mãi đến khi con ôm chầm lấy Má và nói khẽ: -”Con đã pass rồi! Con không dám mừng to vì cô bạn kia bị trượt, cô ấy khóc quá trời!" Ôi con gái của Mẹ, con đã ý thức được niềm vui của con và nỗi buồn của người khác trong cùng một thời gian, không gian se lạnh ấy.

Nhìn theo bước con đi, ký ức Má quay về với kỷ niệm ngày xưa. Má nhớ Bà Ngoại. Nhớ ngày Má ra đi vượt biên. Ngày ấy Bà Ngoại của con đã nuốt ngược nước mắt vào lòng. Dù tim gan có nát tan vụn vỡ, Bà đã không dám khóc thành tiếng vì sợ hàng xóm họ nghe, họ đi báo với công an, Bà đã rứt ruột rứt gan nhìn con cháu trốn chui, trốn nhủi đi xuống thuyền vượt biển - vượt biên, dù không biết có đến được bờ bến tự do, hay phải vùi thây trong lòng biển cả, làm mồi cho cá mập. Bao năm qua, bà ngoại đã không còn trên đời, để Má được sung sướng khoe với Bà rằng đứa cháu ngoại của Bà nay đang làm việc trên một chiếc tàu Hải quân Mỹ thật lớn, chiếc U.S.S Gunston Hall, thuộc hạm đội Năm ở Đại tây dương, với năm bảy tầng lầu, có sân máy bay, có phòng ăn, phòng ngủ, có nước nóng, nước lạnh, có ti-vi, tủ lạnh v.. v., khác hẳn với chiếc thuyền con mong manh Má ngồi trên ấy ngày nào để vượt biển.



Chuyến đi của Má sao quá hãi hùng, khủng khiếp, không như Con của Má hôm nay. Tàu của con đã lướt sóng ra khơi đi về hướng Phi châu xa tắp, đi sang bờ Hồng hải khó khăn kia, chiếc "Dương vận hạm" chuyển tải cả tình thương và sự sống đến giúp đỡ người dân ở những vùng đất đói khổ, nghèo nàn, giúp đỡ ngay cả những chiếc thuyền con đang lênh đênh trên sóng nước đang cần thực phẩm, khi lên bờ lại coi sóc cho kẻ ốm đau, và đó cũng là lý do con của Mẹ muốn trở thành một Hải quân Y-sĩ. Những người Lính Mỹ dù già hay trẻ, hay mới ra trường đi... tập sự như con, tất cả hầu như đã mang sẵn trong người một tình thương không biên giới. Con bảo: "Khi họ tình nguyện vào Quân đội là biết trước hiểm nguy mà! Đơn vị điều động đi đâu là mình phải nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, và làm tròn chức năng công việc của mình"! Cũng như những ngày qua ở đây, khi cơn bão Katrina hãi hùng chụp xuống thành phố New-Orleans, hình ảnh những người Lính Mỹ đã mang lại niềm tin, sự sống cho những kẻ không may. Ở đâu có khó khăn thì nơi ấy có bóng dáng những người lính, dù họ là Vệ binh quốc gia, hay người lính chính qui Nhảy dù, mà trong đó đã có người mang dòng máu Việt nam như con, họ có mặt ở khắp các đơn vị, ngay cả chiến trường IRaq.

Tự dưng Má muốn khóc, Má nghĩ thương những người Lính của quân đội Mỹ bây giờ đang chiến đấu khắp nơi trên thế giới, và ngay cả những người đã hy sinh trong chiến trận ở Việt nam mình. Ngày đó họ chắc cũng trẻ như con và có khi còn nhỏ hơn con, họ đã từ giã Cha Mẹ, Anh chị em, từ bỏ căn nhà thân yêu với chăn êm nệm ấm, bỏ lại chỗ ngồi trên chiếc xe hơi êm ái, bỏ những bữa ăn với bánh thịt ê hề, bỏ, bỏ lại hết để đi sang một vùng đất xa xôi bên kia bờ Thái bình dương xa thẳm, vùng đất mà chắc gì trước đó họ đã nghe nói đến tên, đừng nói chi có được một người quen nơi đó. Họ chiến đấu trong rừng sâu núi thẳm, trong đồng tháp sình lầy, cực nhọc thể xác, bất ổn về tinh thần, để rồi cuối cùng hy sinh không tròn thân xác, vĩnh viễn đi về lòng đất lạnh trong nỗi đau chỉ của người thân trong gia đình, và sự thờ ơ; lãnh đạm, hất hủi của một số người đồng chủng, kể cả sự thù hằn của đám người "phản chiến".

Má nhớ có lần Má đưa Con đi tham dự một buổi họp mặt đơn vị cũ của Ba Con, Con đã hỏi Má một câu thật bất ngờ khi Con nhìn thấy một "toán lính trẻ" với quân phục đứng làm dàn chào và được người xướng ngôn dõng dạc giới thiệu: Thế hệ thứ hai!-"Tại sao Lính Việt Nam mình mà trẻ quá vậy? Nếu là quân đội Mỹ thì họ phải có phù hiệu đơn vị chứ, sao con không thấy?" Má không biết hỏi ai để trả lời cho con, đứa con gái biết quá nhiều điều, đứa con gái mà lúc mới lên năm tuổi đã hát thuộc bản nhạc "Tình ca" của nhạc sĩ Phạm Duy và biết cãi lại khi Bác Lợi thử sửa sai: "Con phải hát: Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới... qua đời chớ!” - Không, phải hát là ra đời, chớ qua đời là chết rồi còn hát gì được nữa!" Đứa con gái có lúc cứng đầu khiến Má buồn, Má khóc, nhưng trước khi con ra trường "Navy R.O.T.C" đã mang niềm hãnh diện không những cho gia đình ta, mà một phần cho cả người Việt Nam mình khi con được trao tặng đến 7 phần thưởng trong cùng một buổi lễ, ngay cả thanh gươm biểu tượng của Hải quân, từ tay Hải quân Thiếu tướng (rear Admiral) Edward Masso. Thanh gươm đó lại là món quà do một gia đình cựu quân nhân Mỹ chiến đấu ở Việt nam mình bảo trợ.



Hai người đàn bà Mỹ lịch sự, một già, một trung niên trong gia đình đến tham dự cả thảy bảy người, đã nghẹn ngào cầm chặt tay Má mà nói rằng: Con - Chồng của quí Bà đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Việt nam năm 1967, mãi đến bây giờ họ vẫn không quên tinh thần dũng cảm của Người Chiến Sĩ đó, nên họ vẫn âm thầm ủng hộ quân đội, hàng năm họ "bảo trợ"cho trường một món quà, họ không thể ngờ được món quà họ trao lại dành cho một cô gái Việt Nam, họ vô cùng hãnh diện và biết rằng người thân của họ đã không hy sinh vô ích.! Con yêu, hôm nay Con xa Má đến nửa vòng trái đất, Má khó mà nhận được những cú điện thoại hàng ngày, để nghe Con la hét reo mừng vì đội football trường OU. của Con thắng trận, nhưng Má không ủ dột, lo rầu, vì ít ra Con đã thay Ba Má mà đền đáp một phần nào ơn nghĩa mà người dân xứ sở này đã giúp cho Ba Má, đã tạo ra Con.

Má cứ ước ao một ngày nào đó, Má cũng gặp một người Mẹ chiến binh Mỹ, Bà ấy cầm tay Má mà rằng: "Tôi rất hãnh diện khi người Việt Nam của Bà đến sống ở nước tôi, đã có nhiều người Việt trẻ tuổi đã và đang tình nguyện phục vụ cho đất nước này, góp sức gìn giữ cho quê hương này được trọn vẹn, bình yên, và ngay cả những người lớn tuổi, Họ đã cử nhiều tổ chức đến ủy lạo, ủng hộ cho người Lính và gia đình của họ, một lá thư gửi cho người ngoài mặt trận , một gói quà nhỏ cho gia đình binh sĩ trong dịp lễ lớn như Thank Giving, Christmas, hay một vài phonecard gửi cho người lính phương xa (như Má đã từng mua gửi mỗi khi đến bưu điện) ôi những nghĩa cử đẹp và tình nghĩa vô cùng... " Có mấy ai từ chối một ân tình? Ân tình ngày trước họ rước đón giúp đỡ chúng ta, và bây giờ chúng ta ân đền nghĩa đáp, như đã từng góp công, góp của mỗi khi xứ sở này có một thảm nạn 9-11 và hai trận bão Katrina, Rita chẳng hạn.

Con yêu, tâm tình Má gửi cho con khó mà chấm dứt, nhưng con đâu thể ngồi lâu để đọc mãi thư nhà (con đã được US Navy trả lương phụ trội hàng tháng với sinh ngữ phụ là tiếng... Việt Nam đó mà!), chiến hạm con đang đi nhưng Con vẫn đang làm việc, Con đi xa nhà, Con buồn - Má biết, nhưng "Lính" dưới quyền Con cũng rất cần sự giúp đỡ, an ủi của Con, như người Lính vừa nghe tin "Vợ sanh con" ở nhà, đã vui mừng, hồi hộp làm đánh rơi cây súng trong khi đang đứng gác. Rớt xuống đất còn cơ may nhặt lại, chứ rơi tõm xuống nước biển rồi thì chịu khiển trách thôi. Hãy gắng lên Con nhé, hãy xứng đáng là niềm hãnh diện của gia đình, và cho cả quốc gia Con đang phục vụ. Ba Má thương nhớ Con nhiều và luôn cầu chúc cho Con, cho những đồng đội của Con được vạn điều may mắn, thắng lợi. Má của Con.
LÊ THỊ HOÀI NIỆM
__