Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

 


NHA TRANG MÃI TRONG TÔI.

Lê Thị Hoài Niệm.

 

Nếu không phải vì “chiến tranh giặc giã” lan tràn, nếu không vì cái đảng cướp mệnh danh “mặt trận giải phóng miền Nam” xuất hiện lén lút đánh phá, gây bất ổn, điêu linh tang tóc cho người dân hiền lành vô tội, thì sẽ không có nạn “tản cư” di dời nơi ở. Từ chốn nông thôn hiền hòa, người nông dân không dễ gì rời bỏ làng mạc, mảnh đất thân thương với lũy tre làng hiền hòa bao bọc che chở qua bao nắng sớm mưa chiều.

            Gia đình tôi cũng thế. 

            Tôi không phải là dân sinh đẻ tại thành phố Nha Trang đâu, nhưng vì thời cuộc chiến tranh giặc giã như đã nói, nên Ba má tôi phải “di cư” từ miền nông thôn vào thành phố mà ở, lúc đầu ở nhà cô dượng tôi trên đường Nguyễn Trãi, có trường tiểu học Trí Dũng và sau là trung học Văn học, và tôi đã chuyển trường từ Nguyễn Huệ Tuy Hòa vào đệ nhất Trung học Võ Tánh Nha Trang.

 

            Những ngày còn ngồi ghế nhà trường, thường là vui lắm vì có nhiều bạn bè cùng lớp hoặc khác lớp, thậm chí còn có “đối tượng” nữa. Nhưng với tôi, một con bé “nhà quê” lên tỉnh lớn, cũng có nhiều nỗi e dè, sợ sệt, nhất là phòng học lớp Nhất A 4 của chúng tôi nằm tít dãy nhà sau sân đá banh, cạnh phòng thí nghiệm, nên mỗi lần đi đến phòng học, phải đi ngang qua một đám người đứng hạng thứ ba sau nhất quỉ, nhì ba, nên  ớn tận xương sống.

 

            Đã vậy, mấy anh chị trong lớp lại lớn đùi đụi, trong khi tôi bé tí xíu lại” đen thui”. Anh trưởng lớp tôi hồi đó tên Nguyễn Hữu Cầu thì phải? không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu? Nghe nói có anh tên Nguyễn Minh Nhựt đã hy sinh trong một trận đánh nào đó ở Phan Thiết, thành … anh hùng vô danh. Anh Nguyễn Văn Đốc, người rất cao lớn dưới mắt con bé tôi, cứ lò dò theo cô bạn N.T.Anh (đã qui tiên vài năm nay), đã là đề tài cho tôi và vài bạn chọc phá. Còn mấy chị thì tôi chẳng nhớ hết tên, chỉ có chị Nguyễn Thị Thùy Dương, con gái lớn của Bác Phụng (anh cả của nhà văn NXH, có căn nhà gỗ thật đẹp đầu tiên, sau xây cất thành nhà đúc hai tầng ở đường Hai bà Trưng, nơi đầu tiên tôi đến chơi sau khi chuyển trường đến NT, cũng như những ngày sau tháng tư đen tôi vẫn thường lui tới chơi với Phương Mai- em chị D và “ăn cơm nhờ” do bác Phụng gái nấu thật là ngon). Và có chị Hoa thật đẹp, nước da trắng bóc, hình như là người “Tàu lai”,  nhà chị có tiệm vải ở đường Độc Lập, là ngôi sao của lớp, có nhiều cây si trồng trước cửa nhà chị và trong đó có vị Thầy giáo dạy “vạn vật” của lớp tôi ( và Thầy đã…xác minh  điều đó khi tôi gặp lại Thầy tại nơi tôi ở khi Thầy sang Mỹ du lịch).

            Tôi hay đi học với Thu Thủy (hiện sống tại Sài gòn), nhà ở đường Phước Hải cạnh tiệm chụp hình Liên Nga, nên tụi tui hay chui qua đó nhìn hình người đẹp (hình chị chủ tiệm nhiều nhất) và tán gẫu với anh chị chủ tiệm. Và cũng vì đường đến trường phải đi ngang qua quân y viện Nguyễn Huệ, nên hôm nào đi học một mình là chịu cảnh “chân hươu đá chân nai”, vì  bị mấy chiến sĩ miền xa trở về thành phố “nghỉ phép bất đắc dĩ” ngồi cạnh hàng rào la ó, kêu réo om sòm, nhiều khi họ …đọc thơ tình thật lớn để tặng cho mấy cô nữ sinh áo trắng, có nhóm thì …hát vọng cổ, có khi họ vừa đệm đờn ghi-ta vừa hát tình ca cũng mùi quá mạng, nhưng sợ quá thì cứ cố đi nhanh, hôm nào đi chung cả bọn thì cứ tà tà đứng làm khán giả bất đắc dĩ, chắc mấy người thương binh nghệ sĩ cũng cảm động lắm lắm (?)

 

            Tôi cũng không nhớ vì nguyên do nào, mà có một lần cả đám con gái lớp chúng tôi, có cả chị Thùy Dương, có N T Anh, Thu Thủy,  có thêm Kim Hoa của lớp A2,( người bạn cạnh nhà, có bố làm trưởng ty BĐ, và chúng tôi thường rủ nhau đi học mỗi bữa) kéo nhau vào quân y viện NH, định làm đơn xin đi “tòng quân làm Lính gái”, nhưng trong khi đứng lơ ngơ lớ ngớ chẳng biết phải đi chỗ nào và hỏi thăm ai, thì đã bị mấy người Lính đi tới đi lui la hét chọc phá, nên cả bọn ù té chạy về chẳng thiết tha gì chuyện lính tráng.

 

            Nhờ những tháng ngày “chăm chỉ học hành”, không lang thang ngoài phố Độc lập, không lạng tới lạng tui bằng xe Yamaha hay Honda như mấy cô bạn gái cùng xóm, nhằm mục đích “chộp mũ” những chàng Sinh Viên Sĩ Quan Không quân -Hải quân, những “người trai thời loạn” đang tập tành làm Lính ở những quân trường, mà có nhiều người quê quán xa tắp mù khơi trên mọi miền đất nước, nên khi về thụ huấn ở Nha trang đã trở thành “con bà Phước”, cuối tuần chỉ biết lang thang trên đường phố, nhìn thiên hạ đi tới đi lui, chờ cuối ngày về lại quân trường, và đó là “đối tượng” thích hợp để mấy cô gái choai choai đang rảnh rỗi ra tay làm việc …nghĩa hiệp và  muốn có người cảm ơn mình sau khi  đã trả mũ về cho nguyên chủ. Dĩ nhiên “trò chơi mạo hiểm” này đã không mấy lôi cuốn được tôi, mà mấy năm sau tôi có được cái nghề “gõ đầu trẻ” xuất từ trường Sư phạm Qui Nhơn, vì không có nhiều tiền để vào Sè-Goòng học tiếp, vả lại “thân gái dặm trường” nên ông bà bô sợ đi một mà về ba không ai nuôi dưỡng nổi..

 

Người sống ở Nha trang một lần trở về trên chính nơi mình lớn lên, học hành và làm việc bao nhiêu năm. Thời gian xưa không dài bằng những ngày sống trên đất Mỹ, nhưng vẫn ghi lại nơi đó nhiều kỷ niệm khó quên….

Hình ảnh con phố Độc lập, Phan bội Châu,…những con đường chính trong thành phố vắt ngang qua khu chợ Đầm hay đường phố Nguyễn Hoàng, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Trãi ôm lấy khu chợ Xóm mới năm nào, mỗi sáng chủ nhật rộn ràng trong nhịp thở của một thành phố Lính. Đủ mọi sắc áo của Lính, của gia đình lính, đủ mọi loại xe cộ, từ chiếc xe Honda đàn ông, đàn bà, đến chiếc xe jeep màu xanh, đến chiếc xe truck, xe nhà binh…Thành phố rộn ràng đón người Lính từ các Quân trường ra nghỉ cuối tuần, đón người Lính từ chiến trường về dưỡng quân nơi thành phố, đón người yêu, đón gia đình của Lính từ khắp cả đất nước về thăm viếng người thân. Người thành phố cũng rộn ràng cuốn theo nhịp thở vui nhộn, bừng bừng sức sống vươn lên từ những trái tim yêu dù hoàn cảnh đất nuớc có ra sao…

Xa xa một chút bên vùng biển Bãi dương, những hàng dừa cao rũ bóng ngã dài xuống bãi biển dẫu còn hoang sơ, nhưng vùng nước không sâu, chỉ là còn nhiều rong rêu trôi lềnh bềnh trên những đợt sóng nhấp nhô đang muốn tấp vào bờ, nhưng vẫn là nơi tắm lý tưởng cho những ai muốn xa rời thành phố một thời gian ngắn.

Rồi đến Hòn chồng, một thắng cảnh nổi tiếng của thành phố Nha trang, nơi có năm ngón tay in rõ hình trên vách đá, dấu tích của một thời mới khai sinh lập địa, có những hóc đá …trữ tình, có lẽ nhiều người chui vô trú nắng nhiều quá, nhất là những “đôi tình nhân” nên mặt đá nhẵn thín, ngồi êm ru. Muốn đến được nơi này, phải đạp xe lên một đoạn đường dốc dài (hay đi xe lam), nhưng thú vị lắm, phải leo qua những cụm đá, phải dẫm chân lên những vũng nước mà leo qua đá chồng đá chất mới đến ..sờ được mặt đá “Hòn chồng”. 

 

Phố biển chiều hanh nắng, dưới bóng những khóm dừa lả ngọn, là hình ảnh của những nhóm người trong gia đình, trải tấm nhựa dài và cả nhà già trẻ lớn bé quây quần chia nhau nắm xôi, trái cốc ngâm, rồi cùng nhau nhảy ùm xuống nước biển, đùa giỡn với  sóng nước mênh mông … Hình ảnh những người Lính ngồi trong quán nước bên ly cà phê, mơ màng nhớ về người yêu nơi xa xăm nào đó, hình ảnh bác xích lô chụp mũ lên mặt ngủ một giấc dài trên chiếc xích lô đậu ngoài mé biển, hay chiếc xe đẩy hàng rong với mớ cốc ổi ngâm nhem thèm bọn con gái, chiếc xe cà tàng bán đu đủ bò kho cho bọn học trò trai nhao nhao chờ đến lượt…

Bãi biển ít người im ắng, nhưng thơ mộng ngay những lúc xế trưa đó, tất cả đã đi vào dĩ vãng…xa rồi và có lẽ ngàn đời sau không bao giờ tìm lại được!

Nhắc lại con phố nhỏ năm nào từ những ngày ở Nhatrang, sao lòng thấy nao nao buồn mốn khóc.

 

Từ khi dời nhà từ đường NguyễnTrãi sang Phù Đổng Thiên Vương, con phố nhỏ thật yên bình, thân thiện như bà con một nhà của những người hàng xóm láng giềng. Cạnh nhà tôi bên trái là khoảng đất rộng của nhà chú Tư, vợ chồng chú là người từ Quảng Ngãi vào Nha trang lập nghiệp từ lâu lắm. Khi đó đám đất hãy còn trống trơn và chú thiếm đã dựng lên ngôi nhà hai tầng khang trang với gia đình có một đứa con trai độc nhất, thằng “cu Tài”. Chú thiếm “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” cả xóm ai cũng trầm trồ khen thằng nhỏ “tốt phước”, dù chú thiếm chỉ là những công nhân bình thường.

Sau lưng nhà là cả một vườn cây ăn trái của “Dì Bảy Đọt”, vì lấy tên của người con trai lớn đang là Lính không quân phục vụ trong sân bay, cậu chàng cũng đờn giỏi hát hay nổi tiếng trong xóm. Căn nhà nhỏ xinh xắn nằm gọn trong vuông đất rộng cả mẫu tây, nên Dì dượng trồng rất nhiều cây ăn trái, vì nó không nằm ngoài mặt đường, nên muốn vào nhà phải vào bằng một con hẻm, nhưng đâu có sao. Nhà trồng ổi nhiều lắm, có một cây tàn rộng phủ qua hàng rào nhà tôi, phủ lên cả một hồ đựng nước, nên cứ mỗi xế trưa, tụi tôi tha hồ leo lên cây ổi mà hái trái chín mơn mởn, với một nắm …muối ớt cay cay, mặn mặn để thanh toán ổi thơm tại chỗ thật …tuyệt vời, lôi cuốn rất nhiều tên bạn đến tham gia hái ổi ..trộm nhà hàng xóm.

  đối diện là nhà của “bà Bắc” bán chạp phô, tiếng gọi thân thương dù bác ấy đã lớn tuổi rồi. Bác trai làm Thượng sĩ trong quân đội nhưng nuôi cả một đàn con trai gái đủ đầy, có hai anh lớn làm đến chức Thiếu tá trong quân đội VNCH, những bạn gái cỡ tôi đều xuất thân từ trường sư phạm.

Cạnh bên là nhà của Thầy giáo Ng. năm nào cũng …sản xuất thêm nhân số, đứa lớn đứa bé gì cũng ở trần trùng trục, mạnh khù khù cứ chạy u ra trước ngõ, để vợ của Thầy phải bưng chén cơm vừa chạy vừa kêu tên mấy đứa nhỏ, mà chúng tôi cũng chẳng nhớ hết tên luôn. Bên cạnh là nhà “ông thợ sắt”. Thật ra chú là người của dòng dõi vua chúa di cư vào đây, hình như là anh em của ngài…Vĩnh Thụy thì phải, vì chú cũng có họ Vĩnh. Mấy người con trai của chú trắng trẻo, nhẹ nhàng như con gái, nhưng không phải…đối tượng của con gái xóm tôi.

Nhà ông Huế thì có nhiều phòng cho thuê, từ Đại hàn, Mỹ, đến cảnh sát, quân nhân ta, hay những người  độc thân…tại chỗ, nên tấp nập người đến kẻ đi, vui lắm lắm.

 Chung quanh xóm nhà nào cũng quen biết, thân tình với nhau. Nhà thiếm Hai kế tiếp rất đông con, chiều nào chú hai cũng lùa cả đám con leo lên chiếc pick up truck mà chạy về tận thôn Đại điền thăm nhà từ đường của chú. Tháng nào có người em từ trường võ bị Đà lạt về thăm, cả xóm cũng “ăn mừng” theo với gia chủ, và cũng là “đề tài” để đám con gái trong xóm bàn tán, khen chê.. Nhà chú Thông bên kia có tiệc vui gì cả xóm cũng được biết.

 Nhà “bà quận” với mấy cô con gái rượu suốt ngày ngồi xe jeep, được “ông Lính biệt phái” chở đi tới đi lui đủ chỗ đủ nơi, bữa nay đang làm tiệc…đón chàng rể nào cả xóm cũng được tin. Ôi cái xóm nhỏ mà vui, chia xẻ buồn vui trong cuộc sống đời thường, ngay cả những buổi kêu mời nhau đến “dự đám giỗ” của một nhà trong xóm, mà bọn nhỏ chúng tôi hay hát đùa: “Tai nghe có đám giỗ gần, trong bụng bần thần chẳng muốn nấu cơm” cho đến những ngày đầu tháng tư của năm 1975, ngày “tang thương” của cả thành phố và những người trong khu xóm nhỏ.

 

Ngày đó xóm nhỏ vẫn còn tồn tại, dù người đi đã đi, nhưng những căn nhà chưa hề đổi chủ, tuy có mấy căn nhà lớn bị “chính quyền mới” vào tịch thu đề làm văn phòng hành chính mới, nhưng vẫn còn đó những trao đổi thân tình, những quan tâm thăm hỏi về những khó khăn, những chịu đựng nhọc nhằn đang đổ oằn trên vai những người thành phố bởi đám người “giải phóng miền Nam”! Những ngày tháng tư đen tối hãi hùng đổ ập lên đầu cả những người dân hiền lành ở những phần đất đã bị “quân giải phóng” chiếm đóng. Và xóm nhỏ nhà tôi cũng không ngoại lệ. Ba má tôi khóc hết nước mắt vì hai người con trai, một đại uý ở bộ tổng tham mưu, một đang học tại Sài gòn không hề biết tin tức gì cả. Những người bà con lánh nạn vào ở trong nhà đã về lại quê ở Phú yên, và người cháu gọi má tôi bằng dì đã bị “quân giải phóng” bắt và chặt đầu chỉ vì từng làm “xây dựng nông thôn”. Mấy người con còn lại thì cứ phải “đi lánh nạn” bom đạn từng đêm từ những ngày đầu tháng tư năm đó.

Nhà bà Bắc trước cửa giờ chỉ còn lại bác trai với vợ chồng người con gái thứ. Bác không đi tù vì không phải sĩ quan. Bác buồn bã suốt ngày không nói một câu, cứ đi ra đi vô thở dài, ngay cả ba tôi có hỏi han Bác cũng không buồn nói. Những ngày tháng mà người Nhatrang phải chịu những trận “bom” từ những chiếc máy bay, bay đến thả những trái bom tấn chết người vào ban đêm do phía những người Lính ...quân mình! Bác buồn bỏ cả ăn uống và trút hơi thở cuối cùng mà mắt mãi không chịu…nhắm. Lúc chúng tôi hay tin chạy sang nhà, để chứng kiến giờ phút lâm chung của bác mà không cầm được nước mắt, vì bác cứ nấc lên từng cơn, như luyến lưu điều gì mà uất hận không nói được, đến khi tôi và người con rể của bác phải “năn nỉ” Bác hãy buông xuôi mà thanh thản ra đi về một nơi chắc không có chiến tranh giặc giã nữa, và những người thân của bác chắc không về gặp được bác đâu…, lúc đó bác mới từ từ nhắm mắt xuôi tay. Nỗi buồn chi mà buồn lạ buồn lùng khi người đầu tiên trong xóm tôi ra đi mà không có đám tang cho đúng nghĩa.

Trong khi cái “ủy ban quân quản” suốt ngày cứ ra ra cách mạng này cách mạng kia với bảy điểm gì đó với cái giọng chanh chua chát chúa, nghe lạnh sống lưng của những người miền Bắc, từ những cái loa bắt cùng khắp trên các trụ điện chỉa thẳng vào nhà dân mà chưa chắc người nào muốn nghe, thì sau lưng nhà tôi, giọng ca và tiếng đờn của Đọt cứ vang lên, nhiều khi nghe réo rắt, có lúc u uẩn xa xăm. Rồi Đọt hát những bài ca tiếng Mỹ, dĩ nhiên có bài chúng tôi chưa từng nghe qua, nhưng sao nó như xoáy vào tận ruột gan…

Nhưng rồi, một buổi tối cả xóm tôi ồn ào và cùng chạy tới “trụ sở khóm” là nhà ông bà cảnh sát đã di tản, để thấy Đọt bị công an đánh tới tấp vào lưng, vào mặt mà không hề kêu la đau đớn gì cả. Thì ra Đọt đã làm một việc mà chắc không ai làm được, anh chàng đã “leo” lên tận sân thượng nhà bác Từ Vân và đứng hát trên đó, dù không biết Đọt đã leo bằng cách nào? Vì trên tường nhà không có cầu thang. Rồi “cách mạng” cũng phải thả Đọt ra vì không “điều tra” được nguồn tin phản động nào. Sáng hôm sau thì bên trường học, đã chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có. Đọt đã “ngồi vắt vẻo” trên trụ cờ bé tí xíu, và đang xé cờ “mặt trận giải phóng miền nam” nửa xanh nửa đỏ đang treo rũ rượi trên đó, bên dưới là một đám công an la lối om sòm, và bọn học trò nhỏ thì bàn tán xôn xao như cái chợ, vì không hiểu làm sao mà Đọt leo được lên tới ngọn, khi mà cái trụ cờ bé tẻo tèo teo. Đọt “điên” từ đó và bị cột chân vào gốc dừa thê thảm lắm, đến mấy năm sau mới mất…Thương lắm.

 

Nhưng đó là chuyện dĩ vãng xa rồi, có nuối tiếc cũng chỉ là nuối tiếc.

Kỳ này tôi trở về thấy xa lạ lắm. Ba má tôi đã về miền tiên cảnh, hai ngôi mộ nằm trên ngọn đồi rất xa thành phố tận trong Suối dầu. Những người già đã giã từ trần thế xuôi tay, những người trẻ năm nào bây giờ cũng đã thành… bô lão, có người cũng đã qui tiên, có nhiều người đang ở xa hằng bao nhiêu cây số, từ nước Úc, nước Mỹ, nước Tây. Xóm nhỏ năm nào nhiều nhà đà đổi chủ, nhà lầu cao tầng đuợc cất lên, bán buôn tấp nập dù con phố chẳng đổi tên. Buồn lắm lắm.

Nhà chú Tư bên cạnh đã bán đi nhiều phần đất, chỉ còn lại một đám nhỏ để cất lên căn nhà nhỏ. Người con trai độc nhất năm xưa được cha mẹ cưng chìu, giờ phải đi làm xa quanh năm suốt tháng, còn lại người con dâu chẳng coi ông cha chồng ra gì, có hôm còn “nhốt” ông trong căn phòng bé xíu, nóng bức da non. Ông có kêu la thì cô ta cho là ông…lên cơn điên loạn.

Nhà thầy Ng. thì đã bán cho người về từ phuơng Bắc xa xôi, họ làm gì trong đó mà cửa đóng then cài chẳng ai biết. Nhà bà Bắc đã bán cho cán bộ .., cũng từ miền Bắc vào, mở phòng chơi game ồn ào như cái chợ. Nhà ông Huế bán cho…việt kiều về xây lầu cao mấy lớp, che …gió biển cả khúc đường. Người lạ về mua nhà, lầu càng cao thì con hẻm lại càng nhiều, âm u và thiểu não.

Nhưng, dù sao Nha trang vẫn là thành phố thân thương trong tôi, thành phố có quá nhiều kỷ niệm của thời mới lớn và đi dạy học tại Nam tiểu học và Âu Cơ. Thành phố còn in lại bóng dáng của những “người hùng năm xưa”, nhưng bây giờ tất cả chỉ còn trong nỗi nhớ. Ngả sáu nơi có “cư xá Sĩ quan vãng lai” năm nào, nơi mà mỗi chiều đạp xe trên đường về, người sĩ quan “nghỉ dưỡng thương” cứ ra đứng chận đường dù là hỏi thăm dăm ba câu…vô nghĩa, bây giờ quán xá chiếm ngự. Quân y viện Nguyễn Huệ, bây giờ cũng chẳng còn, mà là những dãy phố cao tầng, đèn điện sáng choang. Ngay cả “nghĩa tử đường”? (tên nhà xác quân đội mà lâu rồi không nhớ rõ) trên đường Lê Thánh Tôn, nơi mà năm xưa có lần tôi chết siếng vì nhìn thấy những xác người Lính hy sinh không trọn vẹn hình hài, bây giờ là một khách sạn, nhưng nghe đâu không ai dám ở, vì cứ bị “ma” phá hoài. Và cả Trại “Hùng Cường” của hành chính tài chính trên đường Lý Thánh Tôn, mà có lần tôi đùa vui cùng vị sĩ quan trong đó: “Thiếu uý nhìn em thiếu úy cười, Bồ em Trung úy, thiếu úy ơi!” cũng đã thành …thiên cổ. Phi trường Nha trang ngày xưa rộng thênh thang, nơi có căn cứ huấn luyện Không quân, có cả Sư đoàn hai KQ trú đóng, nơi tặng cho tôi người Lính “nhà tôi” từ bấy đến nay, giờ bọn lãnh đạo nhiều quyền lắm thế đã “chia lô” bán cho nhà thầu ngoại quốc (?), mà nghe đâu là người Tàu đứng phía sau. Nhiều và nhiều nơi đã mất hút bóng hình. Tiếc thật.

 

Nha trang, ngày tôi trở lại gặp được gia đình anh chị, các cháu, hội ngộ quá nhiều bạn bè, niềm vui trong tôi còn đọng mãi. Dù bây giờ những thắng cảnh hữu tình của Nha trang không còn nữa, người Nha trang cũng chẳng còn nhiều, chung quanh nhà tôi là người xa lạ mới đến ở, nên muốn tìm lại một chút kỷ niệm ngày xưa thì cũng chẳng có người để cùng ôn chuyện cũ.

Nha Trang xưa vẫn còn mãi trong tôi…

Lê Thị Hoài Niệm.

 THÀNH KÍNH PHÂN ƯU.

Xin chia xẻ nỗi đau của những gia đình mất mát
Có Ông Bà, Cha Mẹ hay trân quý Con yêu.
Trận lụt kinh hoàng tại TX country Hill
Đã cuốn họ theo dòng nước sông chảy xiết.
Xin gửi đến tất cả lời chào Vĩnh biệt.
Cầu nguyện linh hồn rời khỏi cõi nhân gian
Thanh thản bình yên ở chốn thiên đàng.
Lời tiễn biệt, lòng thành tâm khấn nguyện !
Hn

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2025


 Từ lúc nhận được tập thơ "Người Lính Làm thơ như viết sử" của Donry Nguyễn gửi sang, tôi đã đọc và vô cùng xúc động theo từng trang thơ hiện diện. Lời thơ không cao xa, không văn chương bác học, nhưng ở đó có cái thật, thật đến ngỡ ngàng và gây trong tôi nỗi niềm vừa u uẩn vừa thích thú, những kỷ niệm xưa lại hiện về, hình ảnh những người Lính trận mà tôi đã có nhiều lần gặp gỡ, sao lại quá thân tình và gần guĩ biết bao...Tôi không muốn giữ riêng cảm nghĩ đó mà muốn sẻ chia  đến với bạn hữu để họ cùng đọc và tìm về kỷ niệm..... Chưa kịp làm gì thì tôi nhận được phone của tác giả: Thưa chị, em muốn giới thiệu tập thơ đến với đồng hương mình bên đó, chị giúp em được không?
 
Và cùng với tâm tình muốn chia sẻ đó, tôi đã không ngần ngại "tổ chức " buổi ra mắt tập thơ, với thư mời....
 
 
Và cùng với tâm tình muốn chia sẻ đó, tôi đã không ngần ngại "tổ chức " buổi ra mắt tập thơ, với thư mời....
 

THƯ MỜI

Kính mời quý Anh Chị Em, quý Bạn Hữu, quý Thân Hữu, quý vị yêu thích Thơ Văn…..

Vui lòng bỏ chút thì giờ đến tham dự để ủng hộ buổi: RA MẮT TẬP THƠ:

 

NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ NHƯ VIẾT SỬ

của  DONRY NGUYỄN

Tại  HV DANCING

Địa chỉ: 8009 S. KIRKWOOD Rd. tel: 832 907 1962

Thời gian: từ 11 giờ trưa đến 3 giờ chiều ngày Thứ Bảy 24 tháng 5 năm 2025.

 

Chương trình được Thi sĩ Vĩnh Tuấn giới thiệu tập thơ Lính, nghệ sĩ Bạch Hạc ngâm thơ Lính, Cảm tưởng của người đọc Mai Anh, Hiền Trương, giới thiệu tác giả Ca sĩ Kim Loan….Những bài nhạc lính năm xưa rất hay do những ca sĩ của HV Dancing bảo trợ như ca sĩ Hoàng Sơn từ CA, Anh Vũ, Vân Phương, và Như Ly, Lệ Hằng, Ái Loan, Giang Tỷ, Ban Hợp ca HỒN VIỆT…trình bày

Có phần ẩm thực nhẹ, nước…

Vào cửa TỰ DO.

 

Với sự bảo trợ nhiệt tình của mõt số Anh Chị Em hội đồng hương Phú Yên, SPQN, và Thân hữu của tác giả, Chúng tôi trân trọng kính mời tất cả quý vị, nhất là những vị từng là Lính, hãy đến với buổi RA MẮT TẬP THƠ, để ủng hộ tinh thần của một người lính cũ năm xưa, đã trải lòng trên từng trang giấy mới có tập thơ gửi đến người đọc…

Rất mong sự hiện diện đông đảo của qúi vị. Chân thành cảm ơn.

 

TM Ban Tổ chức: Lê Thị Hoài Niệm.

 

Liên lạc: Hoài Niệm: 832 682 6067

              Donry Nguyễn 626 558 9334

 

Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

 









Vườn thơ

Đêm qua tròn giấc ngủ mơ

Xinh xinh nhà nhỏ vườn thơ trữ tình

Chậu hoa giấy dáng xinh xinh

Nụ hoa tim tím rung rinh nắng chiều

 

Gió lay hồng nụ liêu xiêu

Mấy nàng hoa sứ làm kiêu khoe màu.

Hoa vàng thua kém chi đâu

Vươn cao trong nắng tựa đầu tường xây

 

Clematic hoa tím đầy

Nên nàng dâm bụt khoe ngay sắc màu

Hoa lan lả lướt trên cao

Cẩm tú cầu đẹp, chen vào hoa tôm.

 

Giấc mơ trôi nhẹ êm đềm

 Giật mình thức giấc ra xem, hoa cười.

Lê Thị hoài Niệm

 


BÊN TRONG CÁNH CỔNG SẮT SƠN MÀU ĐỎ.

Lê thị Hoài Niệm

           

            Hắn phải nghe theo lời vợ, dù hắn không là tín đồ của “đạo thờ bà”, và luôn luôn nhẩm đọc thân lệnh: kiên định lập trường! Lập trường của một thằng lính bị bắt buộc…thua trận và phải lưu vong tận xứ người, nhưng nhất quyết không về lại quê nhà khi nào lá cờ đỏ của phường ăn cướp vẫn còn “ngạo nghễ tung bay” và những tên Cộng sản vẫn còn nghênh ngang như trêu ngươi những thằng người như hắn.

            Nhưng hắn phải về, vợ hắn nói đúng: nếu chế độ này nó không sụp mà Mẹ mình sụp thì sao?”

            Hắn nhớ thương Mẹ quá chừng chừng. Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì. Hắn rời xa mẹ hắn từ ngày ba hắn từ giã chốn dương gian giặc giã lan tràn để về bên kia thế giới sau một cú đột quỵ. Hắn được đơn vị cho về làm đám đưa tang ba hắn, người đã bỏ lại mẹ hắn và đám con ba đứa, hắn là thằng con lính lớn nhất nhà. Ngày ấy mẹ hắn chỉ mới ngoài năm chục, và sau đám tang thì hắn phải trở về đơn vị và miệt mài với những phi vụ hành quân gian khổ mãi đến khi tan hàng rã đám vẫn chưa về lại thăm nhà. Bây giờ bà đã già quá rồi, hắn gọi điện thoại thăm bà hoài, dù thính giác của bà đà lểnh lãng.

            Tội bất hiếu nặng quá! Hắn mà có tội đó với chính người mang nặng đẻ đau sinh ra mình, nuôi mình khôn lớn thì làm sao mà dạy con? Trường hợp bất khả kháng, không có cơ hội thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ, “thời cuộc đã đổi khác”(?), nhiều người vẫn bảo thế. Người ta  đi tới đi lui hà rầm, rủ nhau về du lịch từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc không sót hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao trong túi rủng rỉnh đô la (đừng bàn ra bàn vô chống đảng). Hắn phải làm theo “chỉ thị” vợ hắn ban ra: “về thăm Mẹ già trước khi quá trễ!”

            Hắn đành mắt nhắm mắt mở mà về, vì Mẹ!

 

            Chiếc Toyota 4 cửa chạy chầm chậm để hắn nhìn đường sá. Ngang qua khu phố chợ Long Hoa, hình ảnh đầu tiên tại quê nhà đập vào mắt hắn vẫn là con đường lầy lội, bùn đất đỏ tràn lan, những người đàn bà đang xoắn quần lội qua vũng bùn để vào chợ. Không biết bên trong khang trang, đẹp đẽ cỡ nào? chứ hơn ba mươi năm rồi mà chung quanh chợ dơ vẫn hoàn dơ, sửa chữa vẫn hoài sửa chữa, làm hắn thất vọng vô cùng. Ngày xưa trong hoàn cảnh chiến tranh, bị “anh em” phía bên kia về phá hoại liên miên đã đành, chứ bây giờ sau mấy chục năm hòa bình rồi, sao vẫn còn lầy lội, bẩn thỉu như xưa?

 

            Xe chạy ngang qua khu vực Tòa Thánh, trực chỉ về hướng nhà của hắn. Con đường này ngày xưa rộng rãi, quang đãng thoáng mát, lòng đường trải đá đỏ tuy cũng lắm ổ gà, nhưng không ồn ào, lại có vẻ thơ mộng, bởi hai hàng cây gòn cổ thụ ven đường, đổ những bóng dài đan nhau như những chiếc dù che bớt sức nóng của mặt trời đã ưu ái tặng cho vùng đất miền biên giới này. Nhờ vậy những buổi đạp xe đi học ở trường tỉnh, con đường dù dài hun hút, vẫn không làm bọn hắn thấy mệt nhiều, nhất là những buổi trưa hè, đạp xe theo sau “áo trắng tan trường”, dù cả hai bên đều mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng vẫn mang mang những nét tình tứ, mộng mơ. Sau này về Sài gòn đi học, con đường Duy Tân có nhiều cây dài bóng mát, cũng không nhiều bóng cây cao bằng con đường tuổi nhỏ hắn đi qua.

 

 

            Nhưng bây giờ thì khác quá, làm hắn lại buồn lòng. Con đường xưa giờ đã hoàn toàn thay đổi, người ta đã chặt hết cây để nới rộng lòng đường, nhà cửa mọc lên san sát nhưng vô cùng mất trật tự. Quán xá, tiệm cà phê hát nhạc giựt râm ran, tiệm cắt tóc, tiệm sửa xe Hon da, nhà may quần áo, nhà bán xi măng, v…v…đầy dẫy hai bên đường. Chẳng bù với ngày ấy, mỗi một gia đình là một vuông đất rộng thênh thang, sau vườn đầy ắp cây ăn trái, như nhà hắn có đến 4 cây mít, cứ đến mùa là quả nặng trĩu cành, trái nào cũng to đoàng ôm không hết vòng tay, chín lừng thơm nức mũi, chưa nói đến những “dái mít” non vừa bằng vài ngón tay đem chấm với muối ớt làm rỏ dãi những thằng bạn học dân phố chợ. Rồi thì mãng cầu, nhãn, sa-pô-chê, còn đu đủ là đồ bỏ v.v…. Thế mà hôm nay, chỉ thấy nhà và người thế chỗ, xe cộ lên xuống nườm nượp, đất đỏ văng tung tóe, nhất là xe Honda 2 bánh với tiếng nổ ầm ầm văng khói mù trời đất. Người đâu mà xây cất nhà cửa nhiều quá vẫn là câu hỏi lởn vởn lờn vờn trong đầu hắn.

 

            Xe chạy chầm chậm ngang qua khuôn viên trường tiểu học, hắn chợt mừng vì biết đã đến gần nhà, vì ngôi trường này là nơi đầu tiên thầy giáo dạy cho hắn biết cầm cây bút nắn nót khuôn chữ đầu tiên và đọc hết vần a-b-c. Đã bao nhiêu năm rồi không có gì thay đổi ngoài bảng hiệu tên trường. Hình như học trò quá đông mà phòng ốc vẫn y nguyên, lớp sơn loang lổ, sân trường vẫn nền đất hoang sơ, chỉ hai cây cổ thụ bên hông trường là lớn thêm theo năm tháng. Hắn thở dài vì một thoáng so sánh vắt ngang qua bộ nhớ. Cạnh nhà hắn phía bên kia nửa vòng trái đất, cũng chỉ một trường tiểu học, mà sao nó đồ sộ, khang trang to lớn hơn cả một trường …đại học bên này. Hắn buồn.

            Một thoáng ngỡ ngàng khi chiếc xe dừng hẳn lại trước cánh cổng sắt màu đỏ, thằng cháu đi về cùng với người  tài xế xe quen của nó, nhe răng cười và nói đã tới nhà rồi.

            Hắn bước xuống xe mà chân loạng choạng, nửa muốn bước tới, nửa lại chùn. Sự ngại ngần trước căn nhà như xa lạ đã kiềm hãm sự thôi thúc muốn bương chạy ào vào nhà để gọi mẹ, để được ôm bà vào lòng, để được sờ nắn hình hài, vóc dáng thân yêu của người mẹ già sau ngần ấy năm xa cách, và cả người em gái của hắn nữa. Ngày hắn đi, con bé còn độc thân, bây giờ đã con đàn con đống. Nhưng cánh cổng sắt sơn màu đỏ đã chận ngang sự nôn nóng trong lòng hắn. Hắn chỉ đứng xa những chấn song và cất cao tiếng gọi mẹ sau lời gọi mở cổng của thằng cháu.. 

            Người đàn bà đứng tuổi chậm chạp cầm cái chìa khoá tra vào ổ, cùng lúc ngó chăm chăm vào hắn, như muốn hỏi ai đây, thằng cháu cười cười hối thúc mở cổng lẹ lên.

            Cổng mở. Hắn muốn nhào tới ôm lấy em gái hắn, nhưng không biết tại sao hắn không thể nào thể hiện tình cảm của mình, có lằn ranh vô hình nào đó đã hiện hữu trong tình thân giữa anh em hắn. Và người em đã làm thay hắn, khi biết người  đàn ông đứng đó là anh ruột của mình đã trở về thăm nhà sau ngần ấy năm dài. Cô ta hét thật to và nắm tay hắn ù té chạy vào nhà gọi mẹ.

 

            Mẹ hắn quờ quạng cầm cây gậy lần bước đi. Hắn đứng chết trân và khóc lớn tiếng. Mẹ hắn già nua bệnh tật như vậy sao? Hắn ôm chầm lấy mẹ, nhấc bổng bà lên và xoay bà mấy vòng với nước mắt nước mũi chảy dài, nụ cười nhăn nheo của bà làm hắn càng khóc to hơn nữa. Hắn khóc nhưng mọi người chung quanh cười vui, ngay cả mẹ hắn lúc đầu khóc nhưng sau đã cười to vui vẻ.

            Ngày về nhà đầu tiên của hắn đâu khác chi triệu người bỏ xứ ra đi ngày ấy. Hắn biết mẹ hắn là người vui nhất, bà cười nói huyên thuyên, bà hỏi trăm ngàn chuyện, hắn cứ để bà tự nhiên nói, hắn trả lời ít ỏi, vì đôi tai nghễnh ngãng  nghe câu đựơc câu mất của bà. Hắn thương mẹ quá chừng chừng. Bà càng sờ soạng lên hình hài đứa con trai bao nhiêu, nỗi ân hận dày vò trong hắn lại cuồn cuộn trào dâng ngần ấy. Hắn hối tiếc, phải chi hắn về sớm hơn vài năm, thì mẹ hắn đã nhìn rõ dung nhan đứa con trai lớn của mình. Và bà đã nghe rõ được những lời yêu thương trìu mến từ cửa miệng đứa con một cách rõ ràng, thích thú.

            Hắn vui lắm! hắn thầm nói lời cảm ơn tới vợ hắn đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Cảnh mẹ và con gặp nhau, tình cảm chất chứa bao năm nó tuôn tràn như dòng suối mùa lũ, nó chảy cuồn cuộn, ào ào, liên tục làm quặn lòng thằng người luôn dùng lý trí để xét suy, hành xử mọi việc. Chỉ mới quá nửa ngày, mà mẹ con hắn đã đi lại một quãng đường của thời gian hơn ba mươi năm dài đằng đẵng.

 

            Ngày ấy, trong căn phòng hành quân của phi đoàn ở vùng 4 chiến thuật (Bình Thủy-Cần Thơ), nơi mà có những vị Tướng anh hùng, tuyên bố sẵn sàng chọn địa thế này làm căn cứ địa “tử thủ” để chống bọn Cộng sản xâm lăng, nếu thủ đô lỡ lọt vào sự kiểm soát của quân địch. Hắn nhìn thấy “bảng phi vụ” có sẵn tên phi hành đoàn, số máy bay, nhưng thiếu giờ bay và nơi làm việc, nên cứ ngồi chờ (stand-by), mà không biết rằng đã có những cấp chỉ huy cũng như vô số bạn bè đà bỏ ngũ trốn đi. Câu: không bỏ anh em, không bỏ bạn bè mà hắn vẫn thường nghe người ta ca tụng, đối với hắn, thật mỉa mai và chua xót, nhiều lúc muốn hét toáng lên và chửi đổng. Anh em không bỏ, nhưng đã không thông báo cho nhau khi rời căn cứ. Bạn bè không bỏ, nhưng đa số đã âm thầm, lặng lẽ tìm đường thoát thân cho riêng cá nhân và gia đình mình. Chỉ có hắn và một số ít đồng đội là triệt để tuân hành kỷ luật, dù pháo địch đã bắt đầu bắn vào phi trường. Mãi đến khi nghe “Thông điệp” tuyên bố đầu hàng Cộng sản của Tổng thống Dương văn Minh từ chiếc radio nhỏ trên bàn, làm bọn hắn rụng rời, chết điếng. Thế là hết!

 

            Rồi trong cơn hỗn loạn, hoang mang cùng tột, hắn đã cùng mấy đồng đội chạy bay tóc băng qua phi đạo, nơi đang bị đạn pháo của địch bắn nổ rền trời. May quá còn chiếc trực thăng nằm im lìm trong “ụ” như chờ đợi bọn hắn đến để phục vụ lần cuối. Tiếng nổ của máy và cánh quạt quay đều, bình xăng còn đầy làm hắn cảm thấy nhẹ người, vội cất cánh bay lên. Ngồi trước cần lái, người đầu tiên hắn nhớ đến là mẹ. Hắn đã muốn quay đầu chiếc trực thăng bay về với mẹ, rồi sẽ ra sao thì ra. Nhưng những đồng đội trên tàu đã ngăn không để hắn làm theo điều hắn nghĩ. Nước mắt lưng tròng, hắn đã gọi thầm tên mẹ để nói lời từ giã và điều khiển con tàu quay mũi về hướng Côn sơn theo yêu cầu của đa số.

 

            Để rồi cuối cùng, dưới cơn mưa tầm tã, những giọt mưa buồn hay là giọt nước mắt tức tưởi của những người lính, mà suốt thời trai trẻ đã gắn liền với chiếc áo lính và những cuộc hành quân chống giặc. Chiếc trực thăng của hắn đang bay, cũng cùng số phận của nhiều trực thăng đơn vị bạn, khi đáp xuống sàn tàu chiến hạm Mỹ. Hắn đâu còn đủ can đảm để tự mình “đập tàu xuống nước”, nên chỉ biết đứng nhìn con tàu đã cưu mang mạng sống của chính mình và biết bao nhiêu người trong ngần ấy năm tháng bị xô xuống biển sâu mà lòng quặn đau như bị mũi dao nhọn xoáy vào, càng nhìn càng buồn nẫu ruột. Nhưng nỗi buồn cũng bị xé nát từng mảnh nhỏ trước cảnh tượng ồn ào, hoang mang lo lắng của rất nhiều người đồng cảnh ngộ.

 

            Điều an ủi đã được yên bình cho bản thân, không làm hắn quên đi nỗi uất hận thương đau. Nhất là khi tàu cặp bến “Subic bay” của nước Phi luật Tân, Tổng thống Marcos của nước đồng minh VNCH mới tuần trước, giờ đã quay ngược 180 độ, ra lệnh …lột hết những bộ đồ trận, nón, giày của những người đang còn khoác bộ đồ Lính VNCH trên người. Hắn cởi bỏ bộ đồ bay mà hồn vía cũng bay theo, người lâng lâng muốn ngã quị. Người ta trao cho hắn chiếc áo thun trắng và quần màu xanh đậm của “US Navy” rộng thùng thình để mặc vào người, che dấu một nỗi tủi nhục cùng tột. Trong hắn lúc đó là nỗi buồn, sự giận dữ và niềm uất hận đang chen lấn nhau qua từng hơi thở. Hắn hận cho chính mình bất lực, cuối cùng cũng “trốn chạy”, bị sỉ nhục vì làm người Lính thua cuộc, dù rằng trong những năm khoác chiếc áo bay, hắn cũng đã vào sinh ra tử, lê lết trên thân tàu từ vùng hai tới vùng bốn chiến thuật, từ lúc còn ở phi trường Nha Trang, rồi Sóc Trăng sang tận Bình thủy- Cần Thơ, đã hai lần bị đạn phòng không của địch bắn rớt phải vào quân y viện. Để cuối cùng phải ra đi trong tức tưởi không lời từ giã. Hắn xa hẳn mẹ từ những ngày tháng đó.

 

            Mẹ hắn, như có mắt thần soi thấu tâm can phèo phổi của đứa con, nên hiểu được tâm trạng của hắn từ lâu đã không trở lại nhà. Trước khi đưa miếng trầu với cau vào miệng, xỉa cục thuốc, thói quen của bà cụ hằng ngày, bà đã mò mẫm cầm tay hắn, bóp bóp mấy cái rồi chậm rãi:

            -Bay đã dzề rồi, má gặp lại một lần như dzầy trước khi đi gặp ba bay là tao mãn nguyện. Tao biết, bay có khó khăn, khó xử. Nhưng thôi con à, chuyện gì cũng qua lâu quá rồi, có để mãi trong lòng cũng chẳng được gì đâu. Thiệt ra, nhà này được bình an là cũng nhờ Nó, nếu không có nó đứng ra đỡ đần, che chở, thì tao với em gái bay làm sao chịu thấu, suốt ngày chúng nó cứ kêu lên xã để “làm việc” hỏi cung tra khảo, có làm ăn gì được đâu. Rồi bắt tao đi tìm, kêu bọn bay dzề, đi đâu kêu? Bao tháng năm dài có biết gì tin tức tụi bay đâu? Sống hay chết còn không biết mà, tao với em bay cuối cùng đành chấp nhận nó để mà sống sót con à! Có Đấng Chí Tôn thương xót, sau đó bay nhắn tin dzề, còn sống ở bển. Má mừng. Từ khi thấy người ta dzề nước nhiều, tao dzà em bay cũng có mong bay dzề, nhưng bay cứ hẹn qwài mà không thấy dzề. Cũng may bay có gọi điện thăm thường xuyên, dzà gửi tiền dzề nuôi nấng gia đình đầy đủ, thôi dzậy cũng được. Cuối cùng bay cũng đã dzề, giờ má có chết cũng mãn nguyện!

 

            Buổi chiều, hắn và người em đang ngồi tâm sự trước cửa nhà, có người mở cánh cổng sắt đi vào trên tay cầm mấy lá “cờ đỏ sao vàng”. Hắn khựng lại và nhìn trân trối vào người đàn ông trông gầy gò, đen đủi, ốm yếu, được em hắn giới thiệu là “ba của mấy đứa nhỏ”.

            Người đàn ông niềm nỡ bắt tay hắn. Bàn tay xương xẩu, lạnh ngắt, tự nhiên làm hắn rùng mình.

            Bữa cơm chiều đơn sơ, đạm bạc đầu tiên trong căn nhà mới, trên nền đất cũ của bao nhiêu năm tuổi nhỏ làm hắn chạnh lòng. Hắn trệu trạo những hạt cơm cứng ngắt, có cái gì đó ngăn chận, làm những hạt cơm như muốn dừng lại nửa chừng ở cuốn thực quản. Hắn gần như mắc nghẹn, khi người đàn ông  là em rể hắn bắt đầu vào chuyện :

            -Nước nhà đã “giải phóng” lâu lắm rồi, đã hơn 3 chục năm rồi, nhưng sao mãi đến bây giờ anh Hai mới dzề?

            -Ừ thì bận lo làm ăn nuôi con vậy mà!

            -Tôi không nghĩ đó là lý do chính đáng. Chắc anh Hai lo sợ một điều gì? “Đảng và nhân dân ta” lúc nào cũng coi “Việt kiều” là những “khúc ruột xa ngàn dặm”. Ngày trước lỡ ra đi thì bây giờ hãy trở về để xây dựng quê hương, Đảng và nhân dân ta rất “khoan hồng” và kêu gọi “xóa bỏ hận thù” lâu rồi mà, chắc ở nước ngoài anh cũng đã biết?

 

            Rất bực bội, hắn ngó mẹ hắn, nhưng bà đâu có nhìn thấy nét mặt khó coi của hắn. Người em gái hắn, có lẽ “vô tâm” nên cứ ép hắn ăn, thằng cháu thì nín thinh ngó lơ chỗ khác. Tìm cớ thoái thoát, hắn ậm ờ:

            -Cũng có ý định về thăm nhà, nhưng bận làm kiếm tiền để lo cho mấy đứa nhỏ ổn định việc học hành tới nơi tới chốn..

            -Thiếu gì người có con phải lo, nhưng người ta dzẫn dzề hằng năm!

            -Ừ thì…

            Hắn bỏ lửng câu trả lời, sự uất nghẹn đang dấy lên, muốn thoát ra nhưng cứ bị chặn lại nên nó càng muốn bứt, sự bực bội dồn trên khuôn mặt. Hắn đang tự hỏi có nên nói ra những điều hắn nghĩ từ bấy lâu nay, hay nghe lời mẹ hắn mà bỏ qua tất cả, mua sự im lặng trong những ngày còn ở lại để mẹ hắn vui lòng? Thằng cháu nhìn mặt hắn, hình như đã hiểu đôi phần bèn gỡ rối:

            -Ba để cho cậu ăn cơm, đi từ sáng giờ, cậu đói lắm rồi.

            Mẹ hắn biết được tâm trạng hắn, cũng góp lời:

            -“Trời đánh tránh bữa ăn”, đứa nào muốn nói gì thì ăn xong hãy nói.

 

            Bữa cơm đầu tiên trong gia đình hơn ba mươi năm gặp lại, rồi cũng trôi qua. Hắn cố gắng nhìn kỹ người đàn ông, bây giờ là em rể hắn. Người đàn ông này mà là “kẻ thắng trận sau cuộc chiến?”

            Với vóc dáng gầy gò, ốm yếu, con người khắc khổ trông già nua trước tuổi, nhưng nét mặt nhìn kỹ cũng không mấy thay đổi với người thanh niên ngày trước hắn gặp cũng tại nhà này.

           

            Ngày đó, trong “Thánh thất”, nơi Ba hắn thường đi lễ, Ông đã gặp và động lòng trắc ẩn nên dễ dãi cho người thanh niên này đến nhà ở nhờ, vì nghe đâu hắn bị “mồ côi cha mẹ”, không nơi nương tựa nên phải vào chùa ở. Người thanh niên trông bề ngoài rất “ngoan đạo”, biết chữ nghĩa và chơi đàn tranh rất hay, được mọi người trong đạo có cảm tình. Biết ba hắn thích đờn tranh, nên đã không ngần ngại đến gần làm quen và hứa đến dạy đờn cho ông Cụ.  Mục đích anh ta đã đạt được trong mấy năm dài, khi mà nhà hắn trở thành một nơi chốn an toàn, và nơi mọi tin tức hành quân gì của “phe ta” đều được người thanh niên thâu lượm hết. Bao nhiêu bạn của hắn đã đến nhà thăm chơi, bao nhiêu người có chức sắc trong cảnh sát, trong quân đội, đều tạt ngang qua nhà hắn nói chuyện với ba hắn râm ran, vô tình khai vanh vách nay “tảo thanh” chỗ này, mai đi hành quân chỗ kia, nhất là những “căn cứ địa” của bọn cộng sản nằm vùng. Hắn không biết rõ ngày đó có bao nhiêu cuộc hành quân của “phe ta” bị thất bại? nhưng rõ ràng là hắn cảm thấy giật mình khi nhớ lại. Một “thằng phi công” về thăm nhà, ngồi nói chuyện với tên “cộng sản nằm vùng” mà không hề hay biết.

            Nhìn quanh một lượt, hắn đặt câu hỏi:               

            -Tại sao nguyên cả xóm mình, không nhà nào bị bom, bị cháy, mà chỉ có nhà mình bị? Hắn muốn chính tai nghe được câu trả lời thỏa đáng sau nhiều năm bị ấm ức mà chưa biết hỏi ai.

            Người đàn ông suy nghĩ một chút rồi trả lời:

            -Không dấu gì anh Hai, trước khi cả nước được “giải phóng”, nhà mình được chọn làm căn cứ cho “cách mạng” đặt bộ chỉ huy cơ sở, nên “bọn Nguỵ” nó chấm tọa độ pháo kích vào. Lúc đó thì mẹ và nhà em đã được “cách mạng đưa sơ tán” vào Chùa ở rồi.

            Hắn tức muốn lộn ruột lên khi phải ngồi nghe những từ ngữ “cách mạng, nhân dân, giải phóng, khoan hồng..v..v..”, mà từ lâu hắn ghét cay ghét đắng. Hắn muốn hét thật to cho vơi đi sự nghiệt ngã, trớ trêu. Thì ra chính hắn và gia đình hắn cũng đã góp phần vào việc làm “mất nước!” Dù vô tình, nhưng đã lơ là không truy xét “hồ sơ lý lịch” của đối phương. Mà làm sao xét được, khi mà trong phủ Tổng thống cũng đầy dẫy những tên “Cộng sản gộc nằm vùng”, ngay cả trong binh chủng không quân của hắn, cũng có khối binh sĩ, hạ sĩ quan, ngay cả sĩ quan mặc quân phục không quân Quốc gia mà hoạt động cho cộng sản như tên Pi-lot Nguyễn Thành Trung chẳng hạn. Hắn nghĩ vừa giận vừa thương cho những người quốc gia quá trọng tình người, quá nhân bản, quá dễ dãi để cuối cùng làm người bị thua cuộc một cách tức tưởi, thảm hại..

            Người đàn ông tiếp lời:

            -Anh Hai đã dzề tới nhà rồi, cả nhà đều đoàn tụ, cũng nhờ ơn “cách mạng”. Bao nhiêu năm nay tui lo cho gia đình này, hôm nay anh có mặt ở đây, nên ngày mai tui mời anh Hai lên thăm “cơ sở ủy ban nhân dân hành chánh xã”, dù gì tui cũng từng là “bí thư chi bộ đảng”, không lẽ tui không “động viên” được “Việt kiều” về nước “đóng góp” cho xã ta.

 

            Như thế này là quá rồi. Hắn muốn “tranh luận” với người đàn ông đang nhân danh “cách mạng” mà ra điều kể ơn rằng thì là: nếu không có cái tên Hồ tặc du nhập cái đảng cộng sản hắc ám vào nước VN, và không có những tên nằm vùng, những tên cộng sản miền Bắc xâm lấn miền Nam, thì làm gì có chiến tranh giặc giã, để hắn phải làm người Lính bảo vệ miền Nam với hai lần suýt chết, làm gì có cảnh ly tan, cửa nhà hắn đâu bị đạn pháo cày tan nát, mẹ và em gái hắn đâu lâm vào cảnh bị chèn ép để anh ta nhảy ra làm “ân nhân cứu mạng” rồi bây giờ đi kể công? Nhưng hắn nhìn mẹ hắn, nhớ lời bà vừa dặn hồi xế trưa, lại nhớ thêm lời vợ căn dặn trước khi lên máy bay:

            -Về nhà, dượng có nói gì thì cũng cố mà nhịn, mục đích là về thăm mẹ. Anh không có ưu thế nào để đi tranh cãi với một tên cộng sản còn gắn chặt hình ảnh đôi dép râu, cái nón tai bèo. Dượng ấy bị đầu độc quá lâu rồi, từ khi sống chui sống nhủi trong hóc hiểm trên núi Bà Đen chờ đêm đêm lẻn đi “giựt cầu, phá đường”. Nơi mà trên đầu suốt ngày trực thăng bay lên xuống xành xạch, dưới đất là lính đi lùng ban đêm. Mãi  đến khi vô chùa Cao Đài làm tên “hiền huynh tu sĩ giả” mới dễ thở(?). Dưới mắt dượng ấy, anh cũng vẫn là một “tên giặc lái, tay sai đế quốc Mỹ”, và vẫn là “người thua trận nên bỏ chạy”. Dù anh có hét toáng lên rằng anh đi chiến đấu để bảo vệ miền Nam, chống bọn cộng sản xâm lăng từ miền Bắc, thì hãy coi chừng, chuốc họa vào thân. Nhớ mục đích là về thăm mẹ, không phải lúc để làm công tác đấu tranh! Bọn chúng thù dai và tiểu nhân lắm, chuyên xài luật rừng, chúng mà kêu lên xã để “làm việc” là không có ngày về, nếu không đưa nhiều tiền ra để “đấm mõm” bọn chúng, một hành động “làm tiền” rất có hệ thống, lớp lang với đầy đủ vũ khí trong tay. Hãy nhớ, mỗi người một hoàn cảnh, hoàn cảnh nhà mình nó trớ trêu, phức tạp, miễn mình đừng làm gì trái với lương tâm, đừng đứng dưới lá cờ máu của họ mà tuyên bố vung vít như tên tướng hèn râu kẽm của binh chủng anh, là không ai phiền trách gì đâu…

 

            Hắn thở dài, tập vài hơi thở theo bài tập khí công để điều hòa lại nhịp đập con tim. Có ở trong cảnh ngộ mới thấm được nỗi đau, sự bực bội. Làm sao hắn có thể nói chuyện bình thường với người “cộng sản giáo điều” này, dù trong gia đình, có vị thứ anh vợ-em rể, nhưng hai ý thức hệ vẫn là hai lằn ranh cách biệt, hắn ghét cay ghét đắng lá cờ máu kia, lý do chính trong nhiều năm nhất định không về thăm mẹ, vậy mà phải nhìn ngồi người em rể vác về để sờ sờ trước mắt.

 

             Hắn tự hỏi: chẳng lẽ mình cũng là một người hèn? Không! ngày đó hắn “anh hùng” lắm chứ. Có những cuộc hành quân tiếp tế, chứng kiến trực thăng bạn bị cháy ngay trong vùng trời trước mặt, nhưng hắn vẫn bay qua dàn phòng không của địch để lao vào đạp những ống chứa nước bằng đạn pháo binh cho tiền đồn mà binh sĩ gần như sắp chết khát, hoàn thành phi vụ. Có những chuyến bốc quân, địch nã pháo gần ngay bãi đáp, nhưng hắn vẫn đưa con tàu xành xạch sà xuống để lính nhảy lên. Nhiều chuyến tản thương, mà bộ đồ bay dính toàn là máu, túi áo bay lúc nhúc những “dòi bò” vì không kịp kéo kín “phẹc-mơ-tuya”. Những ngày ở xứ người, hắn cũng đã tích cực đóng góp, tham gia vào những cuộc biểu tình, mít-tinh để chuyển lửa về trong nước, ủng hộ những người đấu tranh dân chủ v..v..

            Nhưng bây giờ, ngồi đây, ngồi để nhìn một người đàn ông gầy gò, đen đủi, già nua “lên lớp” mà không  thể mở lời đối đáp được sao? Hắn bèn gạt qua một bên lời mẹ và vợ dặn, phản ứng lại thật mạnh dạn sau khi nhờ thằng cháu nấu ấm trà nóng với mấy cái tách để ngồi …đối ẩm tâm sự.

            Hắn bắt đầu với giọng nói chậm mà rõ:  

            -Bây giờ tôi không nói chuyện với anh (hắn lịch sự gọi người đàn ông) về cái đảng cộng sản, về nhân dân, về cách mạng gì ráo, ba chuyện đó đối với tôi chỉ là sự tuyên truyền láo khoét. Chỉ có ngần ấy chữ mấy anh cứ nói tới nói lui như con vẹt. Tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản, và hãy thành thật trả lời: bao nhiêu năm nay nhà này làm sao có tiền để sinh sống, xây cất lại nhà cửa và con anh có thể lên Sài gòn học đại học?

            -Thì do anh chị ở bên ngoài gửi về giúp.

            -A ha! Vậy tiền đó là tiền Mỹ hay tiền Hồ?

            Người đàn ông khựng lại, hắn được thể nói tiếp những điều rất thực tế, dễ hiểu may ra giúp người em rể, người cộng sản quanh năm suốt tháng lẩn quẩn lần quần trong cái xã xa thành phố, có thể “tỉnh ngộ”. Hắn đang làm công tác “tư tuởng” ngược?  Có lẽ từ trước đến giờ chưa ai nói, không dám nói hoặc không thèm nói cho anh ta nghe, cứ nhịn mãi như mẹ hắn và cả em gái hắn nên anh ta không nhìn rõ được thực hư?.

            -Tôi nói cho anh nghe, bao nhiêu năm anh đi “làm cách mạng”, gây tang tóc điêu linh cho bao nhiêu người, cuối cùng anh được cái gì đâu, chỉ tôi xem? Chung quanh làng xóm của anh được cái gì, hay cũng còn nghèo xơ, nghèo xác? Lúc nào mở miệng ra cũng cách mạng, cũng nhân dân, mà không đủ sức nuôi nổi một gia đình. Anh còn mơ ngủ, hay không chịu sáng mắt ra. Mấy thằng cộng sản chóp bu, lãnh đạo cái đảng của anh, chúng nó giàu nứt đố đổ vách do ăn cướp của nhân dân, ăn hối lộ không nương tay, con chúng nó vung tiền ăn chơi như rác. Còn anh, suốt ngày cứ khư khư cách mạng, nhân dân, ôm ba cái lá cờ đỏ, lá cờ hại dân hại nước, tôi ghét cay ghét đắng. Anh khư khư giữ nó có thể thế cơm no bụng được không? Hay no bụng nhờ cơm áo gạo tiền từ xứ Mỹ?

            Người đàn ông rướn mặt lên ngó chăm bẳm vào hắn, sự ngạc nhiên hiện rõ lên nét mặt. Được thể đứa cháu tiếp:

            -Cậu nói đúng đó Ba à, bao nhiêu lâu nay con muốn nói cho ba hiểu ra, nhưng con sợ ba buồn. Người ta làm “cách mạng” giàu có, còn ba thì cứ ôm cứng bác Hồ, cái đảng cộng sản của ba, sợ bị phê bình là hủ hóa, sợ kiểm điểm gì đó, rốt cuộc nhà mình nghèo rớt mồng tơi, may mà con xuống thành phố học hành rồi làm việc cho công ty nước ngoài, nên cũng đỡ khổ. Nếu không có cậu mợ giúp đỡ thì nhà mình làm sao được như dzầy..

            -Sao con ăn nói “phản động” dzậy?

            -Ba với mấy đồng chí của ba cứ hay dùng từ phản động để áp đặt lên “tư duy” của người khác! Đứa cháu tiếp: Con và lũ bạn con từ lúc hiểu biết sự đời, tụi nó đâu có thèm để ý đến “Bác, đảng, cách mạng” gì đâu, miễn sao khi ra khỏi trường đại học, tìm được một chỗ làm tốt, thường là các công ty nước ngoài, sống thoải mái là được. Đứa nào mà vô đảng, chẳng qua chúng nó là con ông cháu cha, học dốt lại muốn làm ông to, bà lớn. Lớp nữa muốn tiến thân bằng con đường tắt, đâu có đứa nào còn tin đảng nữa, nhưng chúng không ngu gì nói thật, sợ công an tới nhà còng tay dẫn đi, chụp cho đủ tội lỗi nào là âm mưu chống đối đảng, phá hoại cách mạng, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, mặc dù không người nào có một cây đinh ở trong tay, rõ ràng ai cũng biết cái “đảng của ba” đã dùng “bạo lực cách mạng” để đàn áp người ta mà!

            -Nhưng mà…

            -Không nhưng nhị gì cả! hắn bồi thêm: nước Việt nam bây giờ đâu còn “xã hội chủ nghĩa” nữa, tụi nó theo tư bản hết rồi, mà bày đặt gọi “kinh tế thị trường” cho khác chế độ trước. Chúng đem “Bác Hồ” ra làm bình phong, dùng công an trị để doạ nạt, bắt bớ, bỏ tù những ai không a-dua theo bọn chúng. Ngày mai, anh thử lên xã ghi tên nghỉ mấy ngày, tui sẽ đưa anh và cả gia đình lên Sài gòn, để anh nhìn thấy bọn cán bộ chóp bu cái đảng của anh sống như thế nào, hay là nhờ có “cách mạng, nhân dân” mà tên nào cũng ở nhà lầu, đi xe hơi sang trọng, sống như ông hoàng bà chúa, con cái thì cho sang Mỹ, sang Anh du học, mua nhà to cửa lớn sống đời vương giả. Còn anh và một số đảng viên quèn cứ đem cái đảng ra dọa, ai nói đụng tới là bắt bớ giam cầm, làm khó dễ bà con…

 

            Hắn nói xong một hơi, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhưng cũng giật mình thót bụng. Bao nhiêu năm ở xứ sở tự do, muốn nói gì thì nói, nhiều khi có kẻ khơi khơi kêu tên “tổng thống” ra xài xể chơi, nhưng cũng chẳng bị gì. Có điều ở đó hắn nói, mà người nghe cũng đồng cảnh với hắn. Ở đây, trước mặt hắn là người cộng sản chính cống, dù chỉ là một tên cộng sản tép riu. Nhưng sự “bằng mặt không bằng lòng” sẽ khiến hắn bị công an còng tay bỏ vào tù, tẩn cho một trận, hoặc bắt “làm việc” liên miên để khủng bố tinh thần là điều có thể xảy ra. Hắn lại càng không muốn làm “người hùng nổi tiếng”, khiến vợ con hắn ở bên kia phải chạy đôn chạy đáo để kêu cứu, nhờ sự giúp đỡ, để cứu hắn ra. Mới nghĩ đến điều đó, hắn đã ớn xương sống. Thôi thì đàng nào hắn cũng đã có mục đích “về thăm mẹ”, không thể làm phiền đến gia đình, vợ con và những người đang đấu tranh chống cộng. Cả nước chín chục triệu người còn “ớn” mấy triệu đảng viên (???), hơn ba triệu người đi tị nạn, cũng chưa thấy làm gì để dẹp hẳn được lá cờ đỏ kia, liệu một mình hắn, với vài câu nói bình thường, đâu đáng để “tàn đời trong ngõ hẹp?”. Nếu có bị chê là  hèn, cũng đành!.

            Thế là hắn đã đưa mẹ và em gái lên thành phố ở cho đến khi hắn về lại Mỹ, dứt lòng rời xa, từ giã luôn căn nhà có cánh cổng sắt sơn màu đỏ, dù đó là nơi chôn nhau cắt rốn và rất nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ.

Lê thị Hoài Niệm

 

 

 

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

 


BÊN ĐỜI

Lê thị Hoài Niệm.

 

Vượt cả một đại dương mênh mông để trở về nhà. Về nhà! Nghe sao thương yêu trong từng kỷ niệm. Đi đâu rồi cũng phải trở về nhà, dù rằng cuộc ra đi với muôn ngàn khó khăn gian khổ, hay điều kiện tốt đẹp như một cuộc du lịch xa, ở hotel hạng năm bảy sao, tới những tòa biệt thự sang trọng, nhưng vẫn không phải của mình, vẫn mong trở về nhà. “No place like home”! người phương Tây cũng đã có cùng quan điểm đó.

Nhà nào bằng nơi chốn mình được sinh ra và lớn lên với muôn vàn kỷ niệm. Đi và về, cái vòng lẩn quẩn quấn quanh trong cuộc sống. Có những ngườì rất muốn quay về nhưng đã không còn cơ hội, không còn những thân tình để tìm lại chút thương yêu, và căn nhà xưa đã không phải của mình nữa rồi.

 

Và tôi đã trở về, về để thăm lại mẹ cha với thân xác đã nằm yên trong lòng đất lạnh, khi những đứa con đang ở xa ngút ngàn, cũng vì hoàn cảnh của thời thế. Thương cho ba má tôi, suốt cả một đời lo lắng, nuôi nấng, dạy dỗ cả một đàn con, khi đám con trưởng thành, lại cưu mang cơm nước cả một bầy bè bạn của con, những người trai mặc quần áo lính từ quân trường Lam sơn- Dục Mỹ. Hy sinh tất cả cho con, nhưng những ngày cuối đời, đến cận kề bờ tử sinh, ngay khi trút hơi thở cuối cùng, bên cạnh chẳng có đủ mặt các con để làm ấm lòng trước giờ tử biệt. Buồn.

 

Buổi chiều, sau khi thắp nhang cúng cơm cho Ba tôi sau 49 ngày người mất, người mất vào chiều mồng hai tết, sau khi được ăn những món ngon nhất ngày tết do người em họ nấu cúng đầu năm. Ba tôi đã ngủ và ngủ luôn giấc ngàn thu không bao giờ thức dậy nữa. Khi những nén nhang chưa tàn, và những người thân trong gia đình còn tụ tập bên bàn nói chuyện về người đã mất, thì có tiếng gõ cửa. Khách đến.

Người đàn ông buớc vào không có chút gì ngỡ ngàng, như có gì quen thuộc và biết trước mọi việc đang xảy ra, ông xin đưọc thắp nén nhang để cầu nguyện cho người đã khuất sớm được siêu thoát.

Chị tôi chào đón ông và ngỏ lời cảm ơn đã vì người quá cố mà đến. Không phải vì tò mò, nhưng lịch sự tối thiểu cũng phải biết tên để cảm ơn. Bỗng ông quay lại nhìn tôi cười cười và hỏi trổng: quên rồi sao?

 

Tôi khựng người, ngó kỹ lại, giật mình- quên! Làm sao quên được. Người đó sao? Đã hơn bốn mươi năm rồi, từ ngày đất nước tan đàn xẻ nghé, tôi gặp người lần cuối cùng trên bước đường di tản, người đi theo đoàn xe GMC của trung tâm huấn luyện Lam Sơn xuôi nam trên quốc lộ một. Còn tôi, trên chiếc Zamaha 2 bánh chạy về trang trại của gia đình trong Suối Dầu để trốn tránh những người tù vừa thoát khỏi những trại tù ở Nha trang. Đoạn đường chật ních người, kẹt cứng không thể di chuyển nhanh được. Những chiếc xe đủ loại cứ nhích nhích, nhiều lúc đứng yên, nên đoàn người hoảng loạn, nhất là những người Lính, cứ nhào xuống nhìn về trước, hỏi thăm điều gì đó, rồi lại leo lên xe, người đi bộ thì né xuống lòng đường mà lầm lũi bước, xe hai bánh thì lách luồn tìm khoảng trống mà lách qua, vậy mà người Lính đã nhận ra tôi, người phóng xuống và níu lấy xe tôi, ôm chầm phía sau lưng tôi trong vội vã khiến chiếc xe gần như muốn ngã.

 

Những ngày tang thương, đau khổ của cả thành phố Nhatrang, ngày tôi ngóng trông tiếng xe nổ dòn trước sân nhà để nhìn người Lính xuất hiện mà hỏi xem …tình hình diễn biến ra sao? Anh có ý định gì không?. Thành phố rất chộn rộn, tôi không còn đứng trên bục giảng mà trở thành người “tiếp cư” tại ngôi trường tôi đang dạy học, trường học trở thành “trung tâm tiếp cư’ của thành phố, những em học sinh nhỏ không xuất hiện trong sân trường, trong lớp học, thay vào đó là những nạn nhân chạy loạn. Họ từ những tỉnh miền cao nguyên theo đoàn quân di tản đổ về, từ miền trung chạy về đây. Những người dân với nét mặt hoang mang, lo lắng trong những bộ quần áo nhếch nhác, lê thê lếch thếch mệt mỏi đến tận cùng. 

Cứ mỗi chiều là có từng đoàn xe đổ xuống, nào là xe chở hàng, xe jeep nhà binh, đủ mọi hạng người, có người lạc mất gia đình, có người mất cả con thơ, …v..v nhìn thấy cảnh xơ xác của họ mà vô cùng đau lòng, thương cảm..

Tin chìến sự cũng ùa tới khi những người di tản kể chuyện bị bắn giết trên đường đi, họ đã vượt qua bao gian nan khổ ải để tìm về vùng đất bình yên, nhưng không biết có được bình yên hay phải đi tiếp.

Và sự hoảng loạn đã bủa vây cuộc sống của các Thầy Cô giáo trong trường. Có vài người đã bỏ trường ra đi vào nam theo chuyến bay air Việt Nam vì họ có điều kiện. Cứ mỗi buổi đến trường, sau khi làm công tác trợ giúp, các Thầy Cô lại tụm vào nhau và bàn chuyện nên đi hay ở? Vì có những “tin đồn”, nếu là các cô sẽ bị bắt làm “hộ lý”, và ai để móng tay sẽ  bị… rút móng. Sự sợ hãi tăng theo số người tản cư tràn vào thành phố.

 

Và rồi một số đông đã ra đi, những người vừa mới đến cũng dọn gói đi tiếp vào nam theo nhiều phuơng tiện, như xe hàng, ghe thuyền là chủ yếu. Tôi đã không còn dám đến trường vào những ngày cuối tháng ba năm đó vì, trên đường đi rất bất ổn, một số lính ở miền ngoài được tàu hải quân đưa vào bến cảng cầu đá và lên bờ tha hồ đi…phá phách thành phố, những người phái nữ ít dám ra đường nếu không có người nhà đi kèm theo.

Lại nữa, tin từ các đài truyền thanh BBC và đài VOA, theo lời ba tôi nghe hằng ngày, đã loan tin phe địch…thắng trận liên tiếp, và phe quốc gìa đang …bỏ ngỏ nhiều tỉnh miền Tây Nguyên và phía bắc miền trung. Quân “mặt trận” tiến thẳng như vào chỗ không người.

Ngày gần cuối tháng 3 năm ấy, nhà tôi bỗng thêm nhiều bà con từ các tỉnh vùng ngoài cũng tản cư đến trú ngụ. nào là gia đình mấy dì ruột, anh chị con cậu, vài ngưòi bà con, vị chi hơn tiểu đội, nên đã sợ càng thêm lo lắng.…

Những ngày còn tin tức trên TV địa phương, cả nhà ngồi quanh trước TV, nhìn cảnh từng đoàn người đi hàng dọc trên lề đường quốc lộ tiến vào nam, và xe cộ thì chen chúc nhau, cứ cà nhích cà nhích, trên ấy chở hàng hà sa số người đu bám, thấy lo sợ lắm.

 

Vậy mà tôi cũng đã thành một trong số những người đó, nhưng tôi chỉ đi một đoạn ngắn có đích đến, và bất ngờ gặp người Lính trong hoàn cảnh nghiệt ngã này, nên chỉ biết cầm tay, khóc chào từ giã, biết nói gì đây khi người đang làm nhiệm vụ người Lính chưa mất đơn vị, và phải di chuyển theo đơn vị dù chưa biết tương lai về đâu. Và những ngày qua, đoạn đường Dục Mỹ-Nha trang quá đông người di tản lại bất ổn, làm sao người có thể về thăm tôi lần cuối khi đơn vị đang cắm trại…

 

Và chúng tôi xa nhau từ đó, đến khi tôi vượt biển vẫn không có tin tức của nhau, mãi đến hôm nay.

                                                                        ****

 

Ngồi nhắc lại kỷ niệm xưa, từ lúc chọn nhiệm sở là trường Phong ấp- Ninh Hòa sau khi tốt nghiệp trường Sư Phạm, tôi bỗng dưng thành một “tay chơi vũ cầu” thật xuất sắc. Thường thường mỗi buổi sáng, chúng tôi đến trường sớm hơn thường lệ, chỉ thỉnh thoảng xe đò bị hư gì đó mới đến trễ, tôi và Thầy M, dạy cùng trường, nguyên là một vận động viên thể thao của vùng hai duyên hải, Thầy rất giỏi các môn thể dục thể thao, thế là Thầy làm “huấn luyện viên” môn vũ cầu cho tôi, tôi chỉ có việc cột hai vạt áo dài lên, và với…chân đất tha hồ chạy đỡ banh, mặc cho mồ hôi đẫm ướt áo, tính sau. Có khi đến giờ học trò làm bài tập, chúng tôi cũng chạy được ngoài sân.

 

Ông Trời chơi khăm, buổi sáng đó, trong khi tôi đang cột vạt áo và đang chạy ướt đẫm mồ hôi, thì có mấy chiếc xe Honda chạy vào sân trường, và mang theo xe là những người Lính. Họ đến từ quân trường Lam sơn-Dục Mỹ và tìm cô giáo T, họ “giới thiệu” là bạn của anh trai tôi. Trời đất quỉ thần ơi! Cái cô giáo đang vắt ngang vạt áo dài, quần thì ống xăn ống xổ, người thì ướt đẫm mồ hôi mà đi tiếp khách sao trời? Nhưng đành phó mặc, ra sao thì ra.

Vậy mà người Lính đó đã để ý đến cô giáo quái gỡ, thích chơi thể thao kia mới chết chứ. Để rồi sau đó, hình như đoạn đường Dục Mỹ- Ninh Hòa được thâu ngắn hay sao đó, mà người cứ xuất hiện ở trường tôi hoài, đến nỗi thầy hiệu trưởng Ng. cứ đùa vui “trường mình có mướn …lính canh!”

 

Cũng bởi tôi có máu văn nghệ trong người. Từ năm học đệ thất, má tôi đã cho tôi học đờn măng-đô-lin, rồi sau đó lại học guitar, nhưng cứ bị ..thầy gõ tay hoài, nên tôi đã bỏ ngang xương, dù mới biết có chút chút. Nhưng máu văn nghệ vẫn còn tiềm ẩn, khó mà dứt bỏ, nên chi khi người Lính biểu diễn ngón đàn thật lả lướt, với giọng hát thật truyền cảm, truyền qua ánh mắt biết cười, chỉ có …nữ tu may ra không xao xuyến, chứ đứa con gái mới lớn bình thường mà mê nhạc như tôi bị …hút là chuyện đương nhiên..

 

Tôi có dịp đi Dục Mỹ nhiều lần sau đó, con đường bỗng nên thơ, trữ tình chi lạ. Con “suối mơ” có căn nhà gỗ của những người Lính thuê để về trú ẩn sau những giờ phút “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” đã có ban nhạc bỏ túi, với tiếng đàn điêu luyện của những người Lính và tiếng hát của chính họ, của bạn Lính như chúng tôi với những bản nhạc ca tụng người Lính, hòa lẫn vào nhau nghe thật nức lòng.

 

Với đám đông các người sĩ quan huấn luyện viên quân trường, có cả anh tôi, tôi đã là “hành khách” trên chiếc xe Honda của người Lính, nên dù nắng có gắt, gió có thổi hắt vào người từ những đám bụi của cơn trốt buổi xế trưa vừa cuốn qua, tôi vẫn không cảm thấy phiền hà, khó chịu vì tình cảm dành cho người Lính đã vượt qua những gió cát của đoạn đường.


 

Má tôi thương bạn của con thật đó, nhưng để cho con gái bà về “nâng khăn sửa túi” cho mấy chàng lãng tử, coi bộ bà không vừa ý mấy. Bà vẫn dạy rằng “con mà lấy nó, cái thằng ăn chơi, đờn địch ca hát kia, mai mốt có đường…bốc mắm mà ăn con ạ!”…

 

Từ khi đổi về lại Nha trang, con đường Ninh hòa - Dục Mỹ đã không còn thường xuyên đón bước chân tôi, hoạ hoằn lắm mới cùng các bạn tôi đổ đường về thăm lại, khi phải làm “hướng dẫn viên” cho một cô bạn nào đó đi thăm chàng “Sĩ quan huấn luyện” mới quen. Con đường có xa hun hút nhưng tình cảm của tôi dành cho người Lính năm nào vẫn níu chặt bên đời, dù má tôi có ý cản ngăn, mãi đến khi ….

                                                                        *****

 

Bây giờ người xuất hiện nơi đây, vẫn ánh mắt biết cười dù thời gian và hoàn cảnh sống trong nước có làm người già đi…nhiều, nhưng không đến nỗi. Đã có một bức màn vô hình ngăn cản, nên chúng tôi chỉ nhìn nhau và hỏi chuyện bâng quơ về đời sống của mỗi người sau ngần ấy năm dài không gặp lại, và lý do người đến hôm nay, và rồi có những lời tâm tình cảm động.

-Đã có lần anh trở lại Dục Mỹ, muốn về thăm lại căn nhà trọ năm xưa, quân trường thì đã xóa sổ rồi, muốn nhìn con suối nhỏ chảy róc rách sau hiên nhà…, nơi có quá nhiều kỷ niệm của cả một đám bạn, và em.., nhưng tất cả đã không còn nữa. Anh về qua đó thấy buồn đến nẫu người ra. Không còn một người quen, không có căn nhà nhỏ, dĩ nhiên không có cả tiếng cười, tiếng đàn, giọng hát. Bây giờ tất cả đều xa lạ, có những căn nhà lầu chắn ngang tầm mắt, dòng suối thì xác xơ, dơ bẩn, cuộc sống ồn ào, người người hối hả….Lần đó anh đã ngồi ngang cầu mà khóc, thiên hạ nhìn chắc nghĩ anh là “ông già điên”. Anh giở bức hình mình chụp với nhau năm xưa, bức hình anh mang theo mãi bên cạnh cuộc đời anh, anh ngắm nhìn mãi và cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ, nhưng biết là chẳng bao giờ mình có lại được những ngày vui ấy nữa….

 

Anh ngồi kể chuyện đời anh sau những tháng ngày nghiệt ngã, những ngày “tù cải tạo” vô cùng cực khổ, cái đói thường xuyên đến nỗi có hôm phải ăn lá giang để đỡ đói, lao động cực khổ trăm bề đến hơn bốn năm mới được thả về và sau đó có người con gái trong xóm đã chịu về làm vợ anh. Nghe anh kể chuyện khiến chị em tôi cứ mãi sụt sùi. Bỗng chị tôi phán một câu làm chúng tôi chưng hửng: “À cậu Ph. đây phải không? May quá, hồi xưa má chị hay la: con T. mà lấy nó chỉ có nước bốc mắm mà ăn! T à, em …may lắm, nên không phải ăn mắm đều đều!” khiến cả nhà cười vang, chắc Ba tôi cũng đang nhìn xuống chúng tôi ngạc nhiên tự hỏi: sao chúng nó vừa khóc vừa cười?

Người Lính năm xưa chào từ giã ra về, không quên cho tôi xem lại bức hình năm cũ. Dù tôi có ngỏ ý xin làm kỷ niệm, nhưng người Lính đã ngần ngừ và cuối cùng từ chối thẳng: anh đã giữ nó trong ngần ấy năm dài, hãy để anh giữ mãi bên đời, đến khi xuôi tay nhắm mắt. Em còn có một gia đình êm ấm, hãy giữ lấy gia đình của mình, đừng nghĩ gì đến bức hình cũ năm xưa…..

Lê thị Hoài Niệm.