Thứ Năm, 30 tháng 1, 2025

 post lại bài:

NGƯỜI LÍNH KHÔNG QUÂN NĂM CŨ.

Lê Thị Hoài Niệm.

                                                                            


Như thông lệ hằng năm, gần đến giờ giao thừa, chị em tôi sẽ đi sang Tháp Bà để hái lộc đầu năm, xem người đi lễ rồi trở về nhà xông đất. Hồi tối anh H., bạn của anh tôi, có hứa sẽ đem xe jeep đến đưa đi, nên cả bọn mặc quần áo thật đẹp, ngồi sẵn trước cửa chờ xe. Gì chứ mục “hái lộc đầu năm” ngoài Tháp Bà luôn lôi cuốn bọn choai choai tụi tôi. Đi hái lộc thì ít, vì mấy cây cổ thụ có cành lá cao ngồng mấy ai vói tới, cây nào ven đường đi thì bị…vặt ráo trọi rồi từ mấy bữa nay rồi, nhưng đi chen lấn mới là mục đích của chúng tôi. Đêm Giao Thừa người đi lễ đông lắm, nam phụ lão ấu gì cũng có cả, gặp người quen chúc mừng rôm rả cũng vui. Nhưng bọn tôi cũng khoái xem mấy ông …Thầy Bói giải mấy lá xăm Thượng-Hạ của những người vừa mới khấn nguyện “lắc xăm”, dù rằng tụi tôi không có can đảm chen lấn vào bên trong Tháp để xin quẻ xăm lúc giao thừa sợ thở không nổi, và sợ bị …mất dép.


Nhìn mấy ông “Thầy” làm ăn khấm khá mấy ngày gần Tết và sau Tết mới thấy mừng cho họ. Không biết quý Thầy có ngón nghề nào chân chính không? chứ với khoảng sân tối mờ mờ, ngọn đèn điện từ vách Tháp rọi xa xa không rõ gì mấy, mà người lượn qua lượn lại khá đông, làm sao họ chú tâm? nhưng nhờ cái bàn ngồi của họ cũng đâu vào đó nên ra vẻ lắm. Chỉ cần vài quyển sách…Hán tự, có chữ viết kiểu Tàu mà mấy đứa học tiếng Việt chẳng biết nói cái chi chi, rồi năm ba tờ sớ màu vàng vẽ ngoằn ngoèo nằm chễm chệ trên bàn, với ngọn đèn dầu mờ mờ ảo ảo có vẻ huyền bí, linh thiêng, có bàn còn thêm cái lư hương đốt trầm tỏa mùi hương thoang thoảng, với người đàn ông mặc cái áo chùng thâm, đội khăn đóng đen với cái kính cận trên mắt là ra …Thầy rồi. Dù rằng bên duới bàn, với đôi chân chắc cũng khẳng khiu như đôi bàn tay, lại được phủ cái quần màu cháo lòng và đôi dép Nhật(?) là đủ cho các bà các cô “tin tưởng” nhờ giải quẻ xăm rồi. Nhiều lúc đi ngang nghe…lóm họ giải xăm kiểu ‘huề vốn” tức cười quá mà chẳng dám cười, sợ bị mắng vốn. Nhưng không có họ ở những nơi tụ tập “linh thiêng” như thế này, những ngày Xuân mất ý nghĩa, trong khi mấy Thầy đồ viết câu đối chỉ xuất hiện ban ngày và trong sách vở mà thôi.


Trong lúc mấy bạn của anh tôi đang chạy theo mấy trái khói màu, do họ thả sáng cả con đường trước nhà, khiến những đứa trẻ trong xóm cũng tụ lại mà chạy theo la ó, cổ võ om sòm, làm rộn ràng cả khu phố nhỏ, có lúc “bị” xe quân cảnh chạy ngang lên tiếng…cấm đoán không được thả nữa, nhưng mấy ông Lính với nhau mà, họ cười hề hề chờ khi xe quân cảnh đi rồi thì đâu lại vào đó. Vả lại những trái khói màu này được mấy anh “xin” từ bên ban “vũ khí” bạn ngoài bãi tập, cứ thỉnh thoảng họ xin vài trái và để dành cho “đêm giao thừa” về nhà thắp sáng mừng Xuân mới.


Chờ hoài không thấy anh H. đưa xe đến, mấy đứa em tôi nóng ruột và cứ đi tới đi lui, có đứa còn ra tận ngả ba đường xem có bị kẹt gì không mà sao xe không thấy đến? Đang lóng ngóng thì nghe nhiều tiếng… nổ, ban đầu tưởng người ta đốt pháo sớm. Nhưng tiếng nổ nghe lạ lắm, gần giống như tiếng súng, Anh tôi và mấy người Lính bạn bảo thế. Họ ngạc nhiên hỏi nhau sao lại có nhiều tiếng nổ lạ? trong khi đêm giao thừa có lệnh “hưu chiến” từ hai bên, nên những người Lính mới được về nhà đón giao Thừa? Cả đám đang ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra, khi thấy ở đầu đường bắt đầu có người nhốn nháo chạy tới chạy lui, thì ông bác sĩ Hà Thúc …, người đang ở căn nhà đối diện, sà ngay cái xe Vespa lại và la lớn:


-Mấy cô cậu vào nhà nhanh lên đi, Việt Cộng về chạy đầy đường P.H. kia kìa! Tôi từ bệnh viện về đây mà đã bị kẹt đường, vì có quá nhiều người chạy bạt mạng trên đường, họ còn có trang bị vũ khí nữa, đừng ra đường bây giờ rất nguy hiểm, vô nhà ngay đi, đóng cửa lại!


Việt cộng về? chuyện gì lạ vậy? nhất là mấy ông anh sĩ quan huấn luyện viên ở quân trường, người nào cũng trợn mắt ngó nhau, và không ai có câu trả lời cho nhau mãi đến khi nghe quá nhiều tiếng nổ từ khu Máy nước gần nhà nhất, nên cũng….hoảng kinh và chạy hết vào nhà để…nghe ngóng tin tức…


Đó là đêm giao thừa của Tết Mậu Thân. Một đêm dài thật dài sợ hãi với nhiều tiếng súng nổ khắp nơi, khi ở đài phát thanh không còn phát đi những giọng ngâm thơ “Tao đàn” giữa đêm về sáng, không còn nghe giọng ngâm thơ thật điêu luyện của Hồ Điệp, của Mai Hiên, của Hoàng Oanh, Đoàn Yên Linh,v..v..và tiếng sáo trúc réo rắt, ru hồn của Tô Kiều Ngân với những bài thơ tình thắm thiết, những bài thơ nói lên tâm tình của người Lính trận miền xa gửi về cho người em nơi…hậu tuyến. Không có tiếng pháo mừng xuân nổ râm ran làm rộn lòng người và sau đó là bài “Ly rượu mừng” rộn rã của N/S Phạm đình Chương với những tiếng hát nhịp nhàng, thánh thót của ban hợp ca Thăng Long. Không còn nghe lời hiệu triệu của TT gửi cho toàn dân cả nước, thay vào đó là những tiếng súng nổ, và đài phát thanh thì phát nhạc hùng từng chập.


Sáng sớm mồng một, Trong lúc anh tôi và bạn của anh chuẩn bị trở về lại đơn vị, thì tôi cùng cậu em nhỏ xách xe chạy ra phố, mặc dù ba má “cấm đi”, vì sợ hai bên còn …đánh nhau, dễ bị tên bay đạn lạc. Nhưng tánh tò mò vẫn thôi thúc, vả lại trên đường phố cũng đã có người đi lại nhiều rồi, nên chị em tôi vẫn bạo gan đi xem thử. Từ nhà chạy hết con phố ra ngay ngả sáu, chạy hết con đường Bá Đa Lộc và chạy về khu vực Ty bưu điện gần tòa Tỉnh, quang cảnh đập vào mắt chị em tôi là những “thi thể bộ đội” trẻ măng, mặc “đồng phục” kaki vàng ngắn tay và quần short, nằm sóng soài trên vũng máu, có người nằm sấp, kẻ nằm cong queo nhiều và nhiều lắm. Chắc có “lính mình” nhưng đã được đưa đi nhà thương hoặc nhà xác? (Về sau mới biết bọn cộng sản được lệnh về để “tiếp quản” thành phố, nên chúng có mặt trên Chùa Phật Học, ngoài Tháp Bà, khu tòa Tỉnh gần bưu điện, nhất là khu Đài phát thanh, và chúng cứ đi tự nhiên như vào chỗ…không người, mãi đến khi những đơn vị phòng thủ phác giác, họ đã đánh nhau kịch liệt nên bọn chúng chết nhiều vô kể).


Sợ quá nên chị em tôi phóng vội về nhà, thì gặp đoàn xe nhà binh chở đầy Lính với quân trang súng ống đầy người, và họ thả từng tốp, từng tốp xuống canh gác trên những góc đường. Thì ra họ là những người SVSQKQ, sẽ là Lính "đi mây về gió", đang thụ huấn trong quân trường NT, và ngay trước cửa nhà tôi cũng có mấy ngưới Lính được thả xuống. Trong số đó có Anh.


Trong lúc tôi ngạc nhiên sao có sự “trùng hợp” hy hữu khi anh đã được phân phối giữ an ninh tại khu vực nhà tôi, thì anh lại nheo mắt ngó tôi cười mỉm chi rồi lên tiếng:
-Hết dấu được nữa rồi nhé cô bé !

-Ai mà dấu anh làm gì, nhà tôi ngay phố đây này, anh đã biết rồi đó..

-Xem như hôm nay…xui mà hên!


Tôi dắt xe vào nhà mà đầu óc lại nghĩ đến ông SVSQKQ đang đứng gác ngoài cửa mà cười hoài. Nhớ lần đầu tiên gặp anh tại nhà chị Ng, người chị học cùng trường trung học công lập trong thành phố nhưng trên tôi một lớp. Chị nguyên là người miền sông nước Hậu giang, ba má chị làm ăn buôn bán ngoài này, nên cả gia đình dọn hết về để cho chị và mấy người em dễ dàng đi học. Một lần chị bảo tôi thử đoán xem cái làng quê của chị tên gì, từ những phần trên khuôn mặt. Gì kỳ vậy? trên khuôn mặt thì chỉ có mắt, mũi, má, miệng…thì làm sao có cái tên làng? Vậy mà có đó! Chị bảo tôi khi hả họng ra sẽ thấy gì? Răng và lưỡi. Ừ thì làng chị có tên là…Cái Răng! hahaha. Lần đó tôi cười quá mạng và cũng nhớ đời tên làng quê mộc mạc của chị.


Bữa đó nhà chị Ng. có đám giỗ, chị kêu tôi ghé qua chơi đúng giờ khách khứa nhà chị về gần hết. Chơi gì mà chơi, đi ăn giỗ rõ ràng mà! Vì chúng tôi thân nhau, nên mỗi lần tới nhà nhau, cái mục chưa thấy hình ảnh đã nghe âm thanh là chuyện thường tình. Khi bước vào nhà trên chẳng thấy ai, tôi bèn ngâm nga “Tai nghe có đám giỗ gần, trong bụng bần thần chẳng muốn nấu cơm”! Chưa dứt câu đã nghe nhiều tiếng vỗ tay từ nhà dưới và vài tiếng cười nho nhỏ kèm theo.


Trước mắt tôi, trên bàn ăn, ngoài chị Ng, còn có ba ông SVSQKQ với bộ quân phục đi phố màu vàng ngồi chễm chệ ở đó. À thì ra bữa nay là chiều thứ sáu, nên những người SV này có thể ra sớm, chắc để ăn đám giỗ?.


Quê thật là quê, mà không có lỗ nẻ nào để chui, tôi đành trơ mắt ngó mấy ông mà …quên cả chào hỏi.


Chị Ng. nhìn tôi cười và giới thiệu tôi cho ba ông SVKQ xa nhà. Gì chứ mục quen với mấy ông lính ở quân trường, tụi học trò chúng tôi…rành quá. Mấy ông đến đây học, nếu có gia đình, thân nhân, bạn hữu, thì những ngày cuối tuần có nơi chốn để…về, còn không có, đích thị là con bà phước, nên khi quen được cô gái nào là may mắn lắm. Dù mai kia mốt nọ có nên duyên thì âu “cũng là cái số”. Còn không thì cũng đỡ buồn những chiều cuối tuần khỏi lang thang ngoài phố mình ên (?).


Anh là người cùng quê với chị Ng, người miền sông nước hậu giang nên nói chuyện rất tự nhiên và cũng cởi mở lắm, nhất là anh lại là một “Huynh trưởng gia đình Phật Tử”. Chả bù với hai ông bạn người Huế đi cùng, họ thật ít nói, mà khi họ nói câu gì thì tôi cũng ú a ú ớ, phải lắng tai nghe kỹ mới biết họ nói cái chi chi. Không quen nghe giọng Huế đó mà.


Thỉnh thoảng tôi cũng gặp lại anh, khi thì nhà chị Ng., nhưng thường là ngoài bãi biển cuối tuần, khi cả đám bạn chúng tôi có giở rảnh, kéo nhau ra ngoài đó…phá mấy ông SV Hải quân, SV Không quân… chơi. Thành phố của Lính mà, nhất là Sinh viên từ các quân trường. Nhưng lần nào lỡ gặp anh, tôi cũng hỏi vài ba câu xã giao và phóng lên xe đạp dọt lẹ, chẳng dám đùa.


Chị Ng. vài lần hỏi tôi có muốn cho anh số nhà không? Vì anh nhờ chị hỏi dùm. Nhưng không đâu, tôi biết chị Ng. thương quý anh lắm. Nhiều lần chị thổ lộ tâm can rằng chị muốn cho anh biết tình cảm của chị, nhưng sao thấy anh lơ lơ, nên chị đành câm nín. Ngoài tình cảm của “người đồng hương” anh dành cho chị, thì tình cảm giữa hai người khác phái anh đang gửi đâu đâu. Biết chuyện của họ, tôi không…ngu gì mà chui đầu vào để làm khổ người bạn thân thương của mình.


 Và hôm nay, Trời xui đất khiến gì mà anh lại đi đứng gác, giữ bình yên cho khu phố nhà tôi sau một đêm cộng sản xâm nhập, tấn công nhiều nơi trong thành phố. Khỏi cần hỏi, anh cũng đã biết địa chỉ nhà tôi, nên sau mấy ngày …đứng gác, anh đã là khách cuối tuần một lần đến viếng nhà tôi, và thỉnh thoảng buổi tối, anh “chui hàng rào” khoảng đầu đường số năm (Vân Đồn) ra thăm nhà tôi xem có gì khác lạ.


Anh ghé nhà tôi thường là vào sáng chủ nhật. chúng tôi ngồi nói chuyện… đùa giỡn, thỉnh thoảng cả đám anh em nhà tôi cũng rủ anh đi xi nê ngoài phố Độc Lập. Tuy quen biết với anh, nhưng tôi không thấy thoải mái chút nào, mỗi lần nói chuyện tôi đều nhắc đến chị Ng., nhưng anh cứ tảng lờ, làm câu chuyện của chúng tôi mất phần…hào hứng. Nhiều bữa tôi rủ chị Ng. lên nhà tôi sáng chủ nhật để đi phố, nhưng thật ra để chị gặp anh. Sự quen biết giữa chúng tôi cũng lưng chừng đến đó, mãi đến khi anh về Sài gòn để chuẩn bị đi du học bên Mỹ.


Từ thành phố Lackland, anh cũng có gửi thư về cho tôi hình như nhiều hơn chị Ng. Tôi thuơng chị ấy về mối tình một chiều của mình, nhưng không biết cách nào để họ thật sự đến với nhau. Vả lại đứa nào cũng phải học thi, nên bù đầu bù cổ học bài, chị thì quyết chí cho xong bậc trung học để về Sài gòn học đại học, còn tôi cũng phải trót lọt kỳ thi phần một để đi lên năm cuối. Thỉnh thoảng tôi cũng nhận được vài gói quà nho nhỏ từ Mỹ như hộp bút bi (hồi đó quý lắm), thỏi son môi, hộp bút chì sáp vì anh biết tôi thích vẽ. Nhưng tất cả không dám đem khoe với chị Ng., ngại chị buồn.


Có lẽ thấy tôi chậm chạp hồi âm thư, hay anh biết tôi chẳng mặn mà gì về mối tình “Em hậu hương, Anh tiền tuyến”, nên ngày anh về nước nhận nhiệm sở, anh đã chọn được phi đoàn ở miền Tây, quê hương xứ sở của anh. Khi được anh cho biết tin, tôi cũng chỉ chúc cho anh “Vạn sự cát tường” vào mùa Xuân năm đó. Chỉ thương chị Ng. mãi mãi ôm mối tình câm, vì sau vài năm làm người lính đi mây về gió, anh đã kết “thuyền hoa” rước người khác phái về đan khăn choàng cổ cho thêm chút điệu đàng…

                                                            ******

Mấy năm trước tôi về thăm nhà, đến thăm chị Ng., chị vẫn một mình một bóng trong căn phố rộng sau khi về hưu không còn làm giáo sư môn anh văn nữa, hiện làm bạn với chú chó con rất dễ thương. Ba má chị mất lâu lắm rồi, người anh lớn cũng đã mất, người em gái đã đi lấy chồng xa. Tôi có hỏi thăm tin tức về “Người Lính Không quân năm cũ”, mà chị đã từng dành nhiều tình cảm cho. Chị nói “biệt tin Người” từ những ngày tháng đó, nhưng chị có về lại làng xưa vài năm sau để hỏi thăm, thì đưọc biết anh đang bị "tù cải tạo" tận miền Bắc xa xôi không biết ngày về, và sau đó bặt tin luôn. Tôi cũng chia buồn với chị chứ đâu biết nói gì hơn.


Năm rồi, tôi sang Ca họp bạn, vợ chồng người bạn đón tôi từ phi trường về nhà họ để trú ngụ. Nhưng trước khi về nhà, chúng tôi ghé vào một tiệm phở để ăn tối.


Dù đêm tối, nhưng tiệm phở vẫn còn đông người, nhất là trong một góc phòng, có một nhóm người đàn ông mặc đồ dân sự và cả quân phục không quân, họ nói chuyện râm ran và có vẻ đang bàn luận về một vấn đề gì đó mà hơi xa nên chúng tôi không nghe rõ lắm.



Ông chủ tiệm qua bàn chúng tôi chào hỏi, vì người bạn đi cùng có quen biết, ông cho hay đó là nhóm lính không quân xưa đang hội họp để chuẩn bị cho tổ chức gây quỹ, nhằm quyên góp tiền để giúp đỡ cho những người Thương phế binh năm cũ còn kẹt lại ở quê nhà.

Người bạn và ông chủ quán nói chuyện với nhau, họ nhắc tên những người đứng ra tổ chức bữa gây quỹ đó, có một người có tên tôi nghe hơi quen quen, mà lại là pilot năm xưa, không lẽ là “người không quân năm cũ”?


Tôi buột miệng hỏi ông chủ quán về tên người đó, vì dù gì cũng là...người quen cũ mà. Sau bao nhiêu năm đã bặt tăm hơi, biết đâu giờ gặp lại cũng còn vài kỷ niệm để...nhắc nhở? Ông cho biết đúng rồi và nói ông ấy vừa rời khỏi để đi về nhà có việc cần gì đó. Ông hỏi tôi “bộ chị có quen sao?” Rồi thao thao bất tuyệt về những công việc người đó đang làm, rằng ông sinh hoạt hăng hái lắm.., và kể luôn cả gia đình với người vợ…ghen tàn bạo, (chắc ông đi sinh hoạt nhiều nên có quý nữ lưu...chiếu cố?) rồi nói chị đừng có hỏi thăm làm chi, nếu chị không... thân tình lắm. Ông kết luận cứ y như sắp sửa có màn đánh ghen trong …tiền kiếp!


Trời đất! Ông làm tôi nhụt chí và thầm nhủ phải chấm dứt ngay chuyện muốn tìm thăm lại người Lính Không quân năm cũ, dù vợ người bạn của tôi góp ý là cứ đến thăm nếu muốn, vì mình từng là bạn cũ mà! Nhưng thôi, thăm hỏi để làm gì vì đâu còn chị Ng, để báo tin cho chị.

Lê Thị Hoài Niệm.

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025

 

 

THỜI GIAN

Lê thị Hoài Niệm

             


Hằng đêm, chàng vẫn thủ thỉ thì thầm qua đường dây điện thoại viễn liên, rằng tôi, chính tôi chứ không phải ai khác, người bạn tình hồi năm xửa năm xưa, đã là niềm vui, niềm hy vọng lớn lao trong cuộc sống hiện tại của chàng, nếu không tình cờ biết  được số điện thoại của tôi qua một người bạn, không biết bây giờ chàng sống ra sao(?). Thế là tôi nghĩ mình thành nhân vật quan trọng, và thảnh thơi hằng đêm chờ điện thoại của chàng. Nếu nhiều năm về trước, những cuộc gọi viễn liên, những buổi nói chuyện mãi hoài không dứt như chàng đã gọi cho tôi, chắc chắn tiền lương hằng tháng chàng kiếm được, sẽ  không đủ trả cho hãng điện thoại.

 

            Nhưng thời buổi bây giờ khác rồi, đường dây điện thoại cầm tay của chàng nói chuyện bất cứ nơi đâu trong xứ Mỹ mà chẳng phải trả xu nào, nếu sợ mỏi tay, chàng chỉ cần gắn cái sợi dây vào lỗ tai,  hoặc sang hơn chút nữa, gắn cái nút không giây vào cổ áo, có thể vừa…quét nhà vừa nói chuyện bình thường.

            Bởi điện thoại bây giờ tiện dụng như thế, nên bữa kia tôi đi vào chợ, gặp được người quen, từ xa thấy người cười cười, vừa cười vừa nói, mình  lầm tưởng người thân ái chào mình, bèn lớn tiếng chào lại, rồi lịch sự đưa tay cho người nắm lấy. Nhưng nỗi vui chưa đến thì nỗi buồn tiu nghỉu nhào theo, vì người đang nói chuyện với ai đó trên điện thoại, họ cười với nhau mà mình ngỡ vui vẻ với mình. Ôi cái điện thoại cầm tay hay “di động” chắc cũng đã làm tẽn tò nhiều kẻ như tôi?

 

            Dù biết chàng không phải là “người ngoài phố” và tôi cũng không là “bà Tám”, nhưng sao đường dây điện thoại viễn liên cứ làm việc hàng đêm và những buổi cuối tuần. Không biết chuyện ở đâu ra, nhưng chuyện vẫn bắt đầu từ chàng:

 

-Nhớ quá!

-Nhớ gì?

-Nhớ chuyện chúng mình nhiều năm về trước.

-Tất cả đã thành …dĩ vãng rồi.

-Không  đâu! Mình có thể là nhân vật chính trong “tình già” của cụ Phan Khôi ấy mà.

-Hai người gặp nhau, sợ rằng không đủ can đảm để nhìn…

-Người già trời đã cho mắt kém, mình đừng đeo kính, khỏi sợ!

-Nhưng mà..,  

-Không nhưng nhị gì hết, hãy tưởng tượng mình còn trẻ, và sống lại những ngày xa xưa cũ, ngày ấy …

 

            Chàng là Sinh viên sĩ quan không quân đang thụ huấn tại quân trường Nha Trang, vượt tiêu chuẩn để được tuyển dụng, nên rất “bắt mắt”, và chàng đến từ vùng đất Nam kỳ lục tỉnh. Chàng từng là “Tráng sinh” trong gia đình Hướng đạo, và tôi lúc đó là một “Sói già” (nhưng còn rất trẻ).

            Vì có thì giờ rỗi rảnh, nên tôi xin tham gia vào phong trào “Hướng đạo” với bạn cho vui. Hai ngày cuối tuần là thời gian sinh hoạt của gia đình hướng đạo, Đạo Kh.H chúng tôi, cũng là ngày chàng SVSQKQ được nghỉ, nên đã là cơ hội cho chàng tìm lại không khí sinh hoạt, vui đùa một thời làm “Tráng”. Chàng đã “thổ lộ tâm tình” khi đang giúp tôi đóng cọc dựng  lều cho bầy “sói con” trong một buổi lửa trại ở Tân Thành..

 

            Dây thân ái lan rộng muôn nhà, tuy cách xa nhưng tim không xa…,” . Dĩ nhiên những giờ phút được thụ huấn trong quân trường là thời gian chàng cách xa tôi. Nhưng không sao, chúng tôi đã thuộc nằm lòng bài hát, và dây thân ái đã kết chặt đời chàng quấn ngang cửa nhà tôi vào những ngày giờ chàng có phép, chàng không còn là…con bà phước, nên khỏi phải đi lang thang ngoài phố để chờ giờ trở lại quân trường như một số sinh viên sĩ quan khác(?).

 

            Ngày chàng lên đường đi sang Mỹ du học lái máy bay, tôi cũng có một màn rơi lệ tiễn đưa, nhưng đưa sơ sơ ở vòng ngoài cổng rào, nơi mà chàng cũng thỉnh thoảng …trốn trại ra ngoài ban đêm để đưa tôi đi ăn, món ăn duy nhất là các loại “chè”, một điều chàng vẫn thường thắc mắc, tại sao không đi ăn một thứ gì khác như mì, hủ tiếu hay phở đêm, mà chạy lòng vòng vẫn là ..chè? từ ngả sáu cho đến dưới chợ Đầm, chỗ nào có quán chè nổi tiếng là có chúng tôi làm khách hàng. Chàng đâu biết rằng, tôi đã tập cho chàng tính…tiết kiệm, và cũng tiết kiệm dùm chàng, lương sinh viên ba đồng ba cọc, vì chỉ có món ăn bình dân đó, vừa ngọt ngào tình nghĩa, lại vừa ít tốn hao!

 

            Thư chàng viết từ căn cứ huấn luyện đầu tiên Lackland AFB trên đất Mỹ xa lạ gửi về, tôi sung sướng hãnh diện đem khoe cùng chúng bạn, những tên bạn học với tôi hồi năm nẳm, và cũng cố gắng viết dăm bảy tiếng Mỹ gửi lại cho chàng, nũng nịu chuyện nhớ nhung xa cách. Rồi lâu lâu không nhận được thư chàng thì viết bồi vài lá thư với 21 đồng tiền tem hồi đó …dọa rằng nếu chàng chậm thư, coi như không nhớ đến kẻ ở nhà, rằng chắc chàng đã có người yêu mới mắt xanh mũi lõ, thôi thì “sugar you –you go, sugar me-me go”, mà không biết rằng những ngày đó trên đất lạ quê người, chàng đang lo học sốt vó lên,  nếu không “pass” được phần anh ngữ, coi như không có dịp làm người hùng bay bổng, mà nếu may mắn thì sẽ được ở lại học về kỹ thuật dưới đất, còn xui tận mạng thì bị trả về nước làm lính rừng, dù rằng chàng có kể trong thư rằng thì là quí chàng cũng có cái màn “học tủ, học bùa”. Với lối thi “a-b-c-d ” khoanh, người thi trước tìm ra được câu trả lời chính xác, cứ tự nhiên truyền lại cho người thi sau những câu …thần chú phải thuộc nằm lòng ( dĩ nhiên có lần cũng bị tổ  trác). Với thư chàng gửi về lúc ấy, có một trong những câu thật buồn cười mà mãi mãi tôi không thể nào quên được đến tận bây giờ: “anh cu chiều buồn bã, cầm...chân cẳng dọc chơi, bỗng có ai cêu cửa, bèn chui ẩn dưới bàn…!”( a c c b b, c c c d c, b c a c c, b c a d b…)(có những chữ kém thanh nhã nên tôi phải đổi lại chút xíu)

 

            Gần một năm xa cách, chàng hiên ngang trở về nước trong sứ mạng “tài xế máy bay”, một “ người hùng không gian” và là thần tượng của nhiều cô gái mới lớn thời ấy, dù chưa biết chàng có  “chiến đấu oai hùng” hay lùng bùng …lạnh cẳng(?). Đơn vị đầu tiên chàng nhận sự vụ lệnh  lại là phi trường ở vùng đất BIÊN HÒA xa lắc quê tôi, một nơi chốn cũng trên quê hương Việt nam yêu dấu, nhưng muốn đến được nơi chàng, tìm chàng để tận tay trao tặng chàng “khăn ấm chính em đan” thì tôi không thể nào thưc hiện được, vì mẹ già sợ con dại ra đi bình yên mà trở lại chẳng yên bình, và chàng thì …không có phép?

 

            Dây thân ái lan rộng muôn nhà” bây giờ thì là nhà người khác. Chàng đã là phi công hào hoa nên muốn giữ được chàng, nếu ở cạnh bên đã khó, huống chi thân tôi quan san cách trở dặm ngàn, từ Nha Trang đi xe đò vào Biên Hòa thăm chàng thì sợ bị Việt cộng phục kích dọc đường chết uổng mạng, nhất là qua vùng rừng Lá ở tỉnh Phan Thiết lúc bấy giờ. Mua vé máy bay thì…khó lòng lọt được vào quầy vé mà không có người quen, và chàng thì luôn bận …phi vụ, nhiều “phi vụ” về ngay Thủ đô Sài gòn mà bạn tôi ở trong đó đã có lần gặp và báo tin lại cho tôi. Nên tôi đã để chàng tự do bay xa và bay tuột khỏi tay tôi, từ một ngày đẹp trời gia đình tôi nhận lễ hỏi của người quen, để tôi khỏi làm gái già gõ ra hột như lời mấy đứa em vẫn thường chọc phá.

 

Thân gái, người có hai bến nước, trong nhờ- đục chịu!”. Một sự chấp nhận kỳ khôi, chẳng công bình chút nào của ông bà từ thuở xa xưa, nhưng đâu bắt buộc đám con cháu hậu sinh nghe lời răm rắp, chúng tôi cũng đâu cần vũng nước trong veo để “tôi nhìn tôi trong nước”,  nhưng nếu đục quá chẳng thấy được gì hết trơn thì làm sao sống nổi?

            Và tôi, trong những ngày đầu xa vắng chàng Tráng sinh không quân, bây giờ là phi công phong nhã, nên buồn nẫu ruột. Nhưng rồi, tôi không phải là Hằng Nga nên chẳng thực hành được điều mà thi sĩ Tản Đà vẫn ca ngợi vị con gái của trời: “Hằng Nga bất nại bão phu miên” (Hằng Nga không chịu ôm chồng ngủ), gia đình tôi đã có thêm mầm sống, một gia đình nhỏ sắp sửa có người nối dõi tông đường người khác họ. Gia đình trong ấm ngoài êm, coi như may mắn lội được dòng …nước trong. Nhưng dòng nước gặp mùa nắng hạn, nước bốc hơi về Trời, bỏ lại tôi khô héo, già queo, bơ vơ đi nốt quãng đường trần nơi xứ người, để tình cờ chàng tìm thấy số điện thoại của tôi. Và tôi, dĩ nhiên tự do nói chuyện mà không sợ có người nghe lén.

 

            Từ chàng, tôi biết được chuyện chẳng êm xuôi, số chàng có sao “đào hoa” chiếu mệnh trong những năm tháng còn lả lướt trong từng chuyến …bay đêm, những ngày tháng chàng quên mất có tôi từng hiện diện trong trái tim non nớt của chàng một thời gian ngắn khi còn ở quân trường Nha Trang. Chàng cứ tự do lướt gió, tung mây, và thỉnh thoảng trong não bộ của chàng chàng ràng câu hát: “Phi công ra đi không ai tìm…xác rơi” cũng có làm chàng hoảng sợ, nên chàng tha hồ …mắc nợ. Món nợ khó trả của chàng đã đeo đẳng theo chàng qua bao nhiêu ngần ấy năm dài, không thể nào buông bỏ.

            Đến khi chàng trở về quê, cứ ngỡ ..“Rồi có  một ngày, một ngày chinh chiến tàn, anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mất năm nao, như lời của nhạc sĩ TLN ước mơ trong “Một mai giã từ vũ khí”. Nhưng không, chàng đi tù mút chỉ cà tha, và “món nợ tình” của chàng không theo đòi chàng nữa, quăng trả cho mẹ chàng đứa con nít vô tội lên hai, con chàng, và nhờ cụ bà nuôi dưỡng.

            Số đào hoa của chàng đã bay trở về trời, sao thái bạch chiếu cố một thời gian làm chàng mất sạch bách mọi thứ, chỉ còn lại đứa con. Đến khi biết được chàng có sao “thiên di” chiếu mệnh, nợ đời của chàng trở về xin “nối lại tình xưa”. Tưởng rằng “Tình cũ không rủ cũng tới”, vả lại dù gì cũng có sẵn sợi dây ràng buộc, chàng cũng “ừ thôi.. em về với anh, như chim liền cánh , như cây liền cành..!”

 

            Đất Mỹ bây giờ khác xa đất Mỹ ngày xưa chàng đến. Ngày ấy buồn xa xứ, có, nhưng vui nhiều vì có bạn bè chung quanh, tuổi trẻ còn nhiều háo hức, nhiều lúc chỉ cần hai chữ “mi tu!” mà cả  đám bạn cùng cười nghiêng ngửa. Cũng bởi vốn tiếng  Anh chưa đủ, thấy thằng trước vào quán gọi món ăn, dù chưa thấy trước mặt dở-ngon-to-nhỏ-mỏng-dày, nhưng hễ đến phiên mình “order” cứ tự nhiên đáp gọn: “me too!” thế là sau đó mỗi tên một cái …LARGE PIZZA ăn chết bỏ, chừa cái tội mi tu!. Nhưng sau ngần ấy năm dài, chuyện đời thay đổi, tình người cũng đổi thay. Vợ chàng, sang xứ người lại tính chuyện …sang ngang..

            Bây giờ chàng đến xứ sở này theo diện tị nạn “tù nhân chính trị”. Tuổi đời đã cao lại phải bương chải kiếm miếng ăn để sống còn, sau lưng còn mang nặng cả một gia đình, hết rồi không khí của những ngày tháng “mi-tu”. Những ngày đầu thật vất vả để đi tìm việc làm, may sao nhờ bạn bè giới thiệu, chàng được nhận vào kéo dây trong một hãng điện tử, để vợ chàng có cơ hội đi học làm ..nail.

            Những ngày vui qua mau. Ở một xứ sở mà con nít, đàn bà được ưu tiên mọi thứ, nên chuyện đi sớm về trễ vì nghề nghiệp của vợ chàng, chuyện đàn bà phải sửa sang làm đẹp, đã kéo vợ chàng xa rời tầm tay với bất lực của chàng. Bây giờ người hùng không gian một thuở, nhiều lúc đã trở thành người…khùng trước mắt người vợ. Chuyện gì đến, đã đến, vả lại đứa con chàng giờ cũng đã lớn khôn.

            Đã mấy bận chàng về…thăm quê hương Việt Nam, ngoài việc viếng gia đình, chàng cũng muốn tìm nguồn an ủi khác như một số đàn ông muốn đổi thay (có một số vẫn đang còn vợ, chứ không phải rảnh rỗi như chàng), cũng có nhiều mối mai ưu ái, nhiều cô gái cũng mơn mởn đào tơ, nhưng chàng cứ ngần ngại, một phần vì “Tổ Quốc Không gian” xưa vẫn là niềm trăn trở không nguôi, niềm ưu tư còn lại là chuyện “cha già con dại”, lỡ mai kia mốt nọ chàng dắt vợ dẫn con ra đường, bạn bè gặp gỡ họ cứ ngỡ ông đưa con gái và cháu ngoại đi chơi thì…kẹt!!!

            Thế là chàng…quỡn, mới tự do nói chuyện hằng đêm cho đỡ  buồn.

            Chàng muốn đến thăm tôi ngay khi biết tôi đang thong thả như chàng, nhưng chuyện “tình buồn” từ những ngày xưa cũ vẫn còn lởn vởn lờn vờn đâu đó đã làm tôi khựng lại, chưa đồng ý để chàng làm chuyến du hành đến thăm, dù với tư cách “bạn già!”

 

            Trời Houston vào Xuân nhưng  vẫn còn  lành lạnh và ẩm ướt, làm những người có tuổi dễ dàng bị bịnh nhức mỏi, tôi vẫn “hăm dọa” chàng như thế. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn phải đi đón chàng tại phi trường Hobby.

Không đến nỗi dặn nhau mặc áo màu gì, cài hoa trên tóc hay cầm bông ..hoa tím để nhận ra nhau, nhưng với chàng, tôi vẫn “khẳng định” rằng tôi cũng có nhiều thay đổi khác xưa. Đàn bà dù qua nhiêu năm tháng đổi dời, vẫn có thể …níu được thời gian nếu chưa quá đát, chỉ cần đến thăm Bác Sĩ thẩm mỹ vài ngày, kéo- căng- bơm- độn đầy đủ, giữ được “tuổi xuân” là cái chắc.

            Phi trường chỉ có một cổng ra, chuyến bay đã đến. Những người Mỹ trắng, Mỹ đen, Mễ, Đại hàn, Tàu Ta gì đều xuống chờ nhận hành lý. Tôi ngồi vào trong một góc quan sát, tránh sự nhầm lẫn không cần thiết. Nhưng sao trong đám hành khách ồn ào, nhộn nhịp kia không thấy một người đàn ông nào cho ra vẻ. Chẳng lẽ người đàn ông giống ông Tàu phù đang đẩy hành lý xách tay đi lẻ loi kia lại chính là chàng? Trông ông ta thật phốp pháp, vẫn còn thấy chiều cao nhưng sao thấy cái bụng chỉ huy cái ..ngực vầy nè, khuôn mặt rất đầy đặn, đôi mắt bị khuất lấp hơi nhiều, coi mòi hơi …quờ quạng, cũng hợp với vầng trán hơi thiêu thiếu tóc, nhưng vẫn còn màu đen (chắc mới nhuộm ?). Chẳng lẽ là chàng vì người đang rảo mắt như cố tìm ai.

 

            Điện thoại cầm tay của tôi rung lên cùng lúc tôi thấy người đàn ông đang bấm số. Vậy là đúng y boong chàng rồi! Ôi! người phi công hào hoa của tôi năm nào sao ra nông nỗi? Thời gian ơi! Sao mi khắc nghiệt, tàn phá người hùng của ta đến thế? Bây giờ thì tôi đã tin những gì chàng nói qua điện thoại hằng đêm: Chàng không còn giữ được hình dáng của người “Pilot” năm xưa, dù thỉnh thoảng chàng cũng có cầm vợt ra sân Tenis  (chắc tán dóc và lượm banh nhiều hơn đánh?). Vả lại cũng đừng phiền hà nếu chàng từ chối…. ăn chè như những tháng ngày còn trẻ, và cũng không dám đi ăn nhà hàng  nhiều  vì chàng đang kết bạn với bốn cao: Cao tuổi, cao máu, cao đường và cao mỡ!!!

Lê Thị Hoài Niệm.

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2025


Houston mà cũng...tuyết rơi

Nhìn thì đẹp lắm, chính trời vào đông

Nhưng mãi than...khổ trong lòng

Bao nhiêu cây cảnh đi ...đong hết rồi.

huhuhu....








 

Thứ Ba, 14 tháng 1, 2025

ÔI THỜI GIAN.

Mùa đông …buồn, lạnh. Người có…tuổi phải trú trong nhà, không có việc cần thì không đi ra ngoài, chỉ gặp một cơn gió lạnh quét qua là cơn ho sẽ chụp lấy và cảm lạnh là chuyện khó tránh, nhất là lúc này cơn dịch …cúm cũng đang ẩn núp đâu đây.

Nằm gác tay lên trán, gẫm lại…chuyện cuộc đời, nhất là những ngày tết Tây đã qua và Tết ta sắp đến. Chuyện buồn, chuyện vui, chuyện ngày còn bé đến tuổi về hưu, nhớ nhất là những ngày còn long nhong cắp sách đến trường…và ngày được gặp lại Thầy Cô và các bạn học năm xưa trên xứ Cờ Hoa này, mới đó mà đã mười lăm năm trôi qua như…cơn gió.


Nhìn lại tấm hình ngày họp mặt lần đầu tiên, giọt nước mắt từ đâu giăng ngang tầm mắt, hình ảnh còn đó mà bao nhiêu người đã …ra đi về miền miên viễn, Thầy giáo lẫn học trò….


                                       Thầy Nguyễn Khoa Đằng, Thầy Lê Quang Khanh,Thầy..., Thầy Lê Ngọc Thiều, Thầy Nguyễn Đức Giang.





*Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đức Giang, có tám năm làm hiệu trưởng trường Nguyễn Huệ-Tuy Hòa, Thầy bị tù cộng sản và vượt biên, rồi được xứ Đan mạch cưu mang. Chuyện ngày xưa còn bé, chẳng có …cơ hội gặp Thầy, ngoài những tên học trò có…lỗi, bị kêu lên văn phòng để Thầy khiển phạt. Nhưng bây giờ, Thầy rất gần gũi và thân tình với học trò xưa. Thầy cùng đứng trên sân khấu, cùng “hợp ca” với học trò mà vô cùng thích thú. Thầy đã hai lần sang…trú ngụ tại nhà chúng tôi khi đến Houston. Nhưng rồi Thầy đã ra đi năm rồi, để lại bao tiếc thương cho đám học trò năm cũ, khi hẹn với thầy sang Đan mạch thăm Thầy, nhưng mãi hoài không thực hiện được.

*Thầy Lê Ngọc Thiều, người đứng cạnh thầy Giang, Thầy cũng gắn bó với học trò năm xưa, lần nào hội ngộ cũng có Thầy Cô tham dự. Nhưng rồi Thầy yếu, phải vào viện dưỡng lão, tôi cũng đã đến thăm Thầy, Thầy trò kể chuyện cũ rất thân tình. Nhưng sinh lão bệnh tử chẳng bỏ sót ai. Thầy cũng đã ra đi chỉ còn Cô ở lại.

* Thầy Lê Quang Khanh, Tuy dạy ít năm, nhưng học trò xưa cũng quý Thầy lắm. Phu nhân của Thầy là chị…bạn, học trước tôi một khóa tại trường SPQN. Thầy bị bệnh đã hai năm và Thầy cũng đã ra đi vài tháng trước.

*Chỉ còn lại Thầy Nguyễn Khoa Đằng (cao nhất trong hình) Thầy và Cô vẫn khỏe và minh mẫn dù tuổi đã cao. Kỳ hè rồi tôi cũng đến thăm Thầy và Thầy trò nói chuyện cười vui…thoải mái, tôi nhắc lại những PPS mà Thầy đã bỏ công thực hiện nhiều hình ảnh cho cá nhân tôi. Học trò cảm ơn Thầy lắm lắm.

*Người đứng cạnh tôi bên trái là Lê Thị Hải Đường, bạn đã bỏ bạn bè ra đi mới đó mà gần 5 năm rồi. Ngày bạn bị bệnh, từ DC về Houston chữa trị, có thời gian ngắn bạn đến trú nhà tôi, vì hai đứa “đồng bệnh tương lân”. Những ngày được tôi tận tình “chăm sóc”, bạn vui và thật cố gắng để hy vọng vượt qua cơn bệnh ngặt nghèo. Nhưng rồi khi bạn về lại DC, chỉ tuần lễ sau, tin buồn đưa tới vào đúng ngày mồng một Tết. Buồn!

Ôi Thời gian! Cứ trôi đi ngày qua ngày …Nào ai biết được ngày sau sẽ …ra sao! Thôi thì được vui ngày nào hay ngày đó. Chuyện…nhớ thì đã nhớ, nhưng rồi cũng phải qua thôi. Tâm sự vẫn là…tâm sự, Mong cho khí Trời bớt lạnh, đi ra ngoài sống với cỏ cây, khỏi ngồi đây …nhớ hoài chuyện cũ.
Gửi kèm bài viết “Niềm vui trong ngấn lệ” hồi đó cho bạn NH nào …quỡn quỡn đọc lại chơi nhen..
Lê Thị Hoài Niệm.


NIỀM VUI TRONG NGẤN LỆ
Tôi rời xa thành phố Tuy hòa và trường trung học Nguyễn Huệ từ những năm giữa thập niên 1960. Vì hoàn cảnh chiến tranh thời đó, và với sự sinh động của một người tuổi trẻ luôn hướng tới tương lai, nên chưa có cơ hội tìm về trường cũ để thăm lại Thầy, gặp lại bạn cũ.

Rồi cuộc thế xoay vần đưa đẩy, bao nhiêu năm sống trên đất nước người, những sinh hoạt ngày còn nhỏ, thời gian cắp sách đến trường, với nhiều kỷ niệm của Thầy xưa, bạn cũ cứ thỉnh thoảng lại xuất hiện trong tâm tưởng, triệu chứng của những người có…tuổi, muốn tìm về quá khứ, những lúc đó cười vui hay buồn bã cũng chỉ mình ta biết, mình ta hay. May thay trong mấy năm gần đây, tôi đã bắt liên lạc được một vài bạn học cũ. Hy vọng, ước ao, nôn nóng có một ngày tất cả thầy trò hân hoan mừng rỡ tay bắt, mặt mừng trong một ngày Đại Hội, và ngày đó đã đến.

Chúng tôi đến Nam Cali bằng chuyến bay trưa ngày Thứ Sáu ngày 10 tháng 7 năm 2009. Anh Sang, người bạn cùng trường năm xưa, và tôi trực chỉ đến khách sạn đã được quí anh chị trong ban tổ chức sắp xếp (đến trước đó đã có quí anh chị Chi-Thịnh, Trúc- Ký cũng đi từ Houston). Nếu có thì giờ đặt sẵn một …camera thu hình, chắc chắn sẽ có được những hình ảnh trung thực, cảm động vô vàn. Vì ngôn từ, chữ nghĩa tiếng Việt dù có phong phú đến đâu, cũng không lột tả được những “niềm vui trong ngấn lệ”. Ở đó, nơi phòng tiếp tân đã có thầy Nhạc, anh Hiền, chị Chương, anh Nết , anh Bổng…., vui quá là vui, vui mà trong mắt người nào cũng long lanh giọt nước mắt. May quá không ai khóc thành tiếng để lấn át những tiếng cười dòn.

Cả một khu vực khách sạn, hình như chỉ dành riêng cho cựu Giáo sư và cựu học sinh Nguyễn Huệ mọi nơi đổ về. Đúng là một ngày hội! Xe cộ tấp nập, người chạy lên lầu, kẻ chạy xuống. Quí Thầy thì ở dãy phòng ngang, réo gọi, kêu nhau chuẩn bị đi đến nhà hàng để tham dự buổi tiền đại hội. Người ở địa phương Nam Cali có…bổn phận làm …tài xế Tắc xi (anh Đặng Ngọc Bổng bữa đó là người có đông hành khách nhất, vì chiếc xe MiniVan mới toanh, thật đẹp, to đùng, chở được nhiều người). Trước cổng nhà hàng đã có tấm băng-rôn: ĐẠI HỘI CỰU HOC SINH NGUYỄN HUỆ PHÚ YÊN 2009 sáng rực, làm người xa về thấy xao xuyến, rộn ràng.

Một Ban Tiếp Tân hùng hậu, toàn là những …“đẹp lão bà bà” muôn màu muôn sắc chẳng thua ai. Mọi người đi tìm lẫn nhau, trò tìm Thầy, Thầy tìm …trò? bạn cũ đi tìm nhau. Chụp hình, mục này là ồn ào hấp dẫn nhất, bao nhiêu là máy hình bấm lia bấm lịa, kèm theo tiếng cười, tiếng gọi. Ở nhà, ngoài xã hội, đa số đã là ông bà Nội Ngoại, nhưng ở đây cứ …mày tao, mi tớ ồn cả lên, hết chạy qua đầu này chụp hình, lại chạy qua chỗ khác như…con nít. Cứ cười lên, dù nếp nhăn có hằn trên trán, nụ cười có nhăn nheo một tí, nhưng nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Bạn tôi, hơn bốn mươi năm gặp lại, nhận ra nhau nhờ cái …bảng tên gắn trên bâu áo. Một chị Thu Cẩm, người đẹp kiêu sa dưới con mắt bọn con nít chúng tôi thời đó, bây giờ vẫn nhỏ nhắn xinh xinh. Anh bạn Khánh, khoẻ người tráng kiện nhờ đi bộ nhiều dặm đường mỗi ngày, đem tin vui và cả bill… đòi nợ đến cho bao người. Anh Xu, vẫn còn ốm tong teo vì mới sang Mỹ, có cả anh bạn Khóa. Chị Hoàng Mai vẫn yêu đời. Anh Lê Từ Như Lâm vẫn còn những bước nhảy điệu đàng thuở nọ….Ở đó, chúng tôi đã gặp lại quá nhiều Thầy cô giáo. Dù Thầy Thiều đang có bệnh, nhưng Thầy Cô vẫn theo học trò để ủng hộ tinh thần, đổ đường bằng xe đò từ miền bắc xuống miền Nam. Thầy hiệu trưởng Nguyễn Đức.Giang đến từ Đan mạch, Thầy Cô Đằng-Phương, Thầy Quỹ-Cô giáo Hiền (Việt nam sang), Thầy Cô Nhạc-Mai Hương(Canada), Thầy Cô Khanh-Thuỷ, Thầy Tùng, Thầy Luận….

Ban tổ chức thật chu đáo trong hai đêm họp mặt. Thật ra thì tiền đại hội mới là “đêm vui’ nhất, vì chỉ toàn Thầy giáo và học trò, khi giờ khai mạc mở màn, “ban hợp ca” cũng hay đáo để, “Nguyễn Huệ Hành Khúc” hùng tráng trong tiếng hát của cựu học trò…già (Cùng Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Giang)
, cũng làm nức lòng những đồng môn có mặt.
Một chương trình văn nghệ sống động, toàn những tiếng hát chưa bao giờ…nổi lên, nên không lo chuyện…xuống (cả Thầy lẫn trò). Ấy vậy mà thính giả cũng vỗ tay vang dội khắp phòng. Món ăn tinh thần đã hay, mà ẩm thực trông qua thấy cũng ngon quá chừng chừng (nhưng người viết lo …chạy nhiều quá nên bị …đói) chưa nói đến những slideshow, ghi lại hình ảnh thời trẻ dại của cựu học trò gửi về, ngay cả thông tín bạ một thời trên lớp. Công khó của thầy Huỳnh Bá Củng, anh Phạm đức Hiền và vài anh chị khác.

Đêm Đại hội chính thức, những học trò và quan khách đều được ban tổ chức tặng món quà lưu niệm thật có ý nghiã: chiếc tách trà có hình vua Quang Trung, và hình trường Nguyễn Huệ với nhiều người đẹp đứng trước cổng trường. Trong khi quí Thầy Cô giáo được học trò kính biếu tấm plaque ghi nhớ công ơn. Xúc động làm sao khi quí Thầy cầm trên tay nâng niu hàng chữ : “Học sinh Nguyễn Huệ ghi nhớ công ơn Thầy…” Đã bao nhiêu năm rồi, các học trò xưa mới có dịp thể hiện tấm lòng biết ơn Thầy Cô giáo, dù có muộn màng, và không có mặt đầy đủ nhiều Thầy Cô giáo khác. Nhưng….! Sáng Thứ Bảy hôm đó, một nhóm nhỏ của chúng tôi, gồm có anh chị Chương-Nết, chị Hoàng Mai, chị Phương Vân, đã được “thổ địa” Ngọc Bổng đưa đi viếng cảnh biển tình. Biển đẹp, người xinh khí hậu mát mẻ, đã tăng thêm lực cho những trận cười của chúng tôi không dứt, cười đến nỗi “tài xế Bổng” chảy cả nước mắt trong lúc lái xe phải chầm chậm lại.

Cười nhiều hơn khi tôi bảo …“dừng xe, để tôi vào xem lại bên trong Hotel đã thiết kế theo đúng ý chủ nhân chưa, để tối nay tôi mời một số Giáo chức và cựu học sinh Nguyễn Huệ đến ở, và rằng đáng lẽ tôi đã đưa chiếc du thuyền lớn nhất thế giới vừa mới hoàn chỉnh vào đây, để cựu học sinh Nguyễn Huệ lên tàu làm tiệc khánh thành, mà cửa biển …hẹp quá nên không vào được, đành khất lại kỳ sau..” Đúng là Nổ banh xác, may mà chưa ai bị gì, chỉ bị cười đến chảy nước mắt.

Buổi tối Chủ Nhật, trước khi tan hàng: cố gắng, “nẫu dià xứ nẫu bỏ mình bơ vơ”. Chủ nhân Đặng Ngọc Bổng đã có hảo ý mời bà con về nhà ăn tối. Lại một trận cười “vô tiền khoáng hậu” xảy ra, cười đến chảy cả nước mắt. Đã bảo “niềm vui trong ngấn lệ” mà! Khi có một người khách “không mời mà đến”, bạn của chị Vân, cô ta đã “chấm” trúng vị chủ nhà, và thao thao bất tuyệt khen chủ nhà “đẹp giai, nói khéo” và không chịu…rời xa, chị Ngọc Chi còn xem tướng số, bảo rằng cô ta có...liên hệ với “người cõi âm”, coi chừng không khéo cả đám trong nhà bị vạ lây, trong khi chị Định từ từ tường thuật lại cuộc đối thoại ly kỳ, hấp dẫn giữa gia chủ và cô khách, mà chúng tôi vì ngồi xa không nghe được, thì anh Định và anh Thịnh từ bên ngoài chạy ùa vào, làm cho Mai Hương tăng thêm phần sợ hãi, lo cho Thầy Nhạc. Chị Thu Thuỷ thì lo cho Thầy Khanh, chỉ có Thầy Hiệu Trưởng Giang là không cần ai lo, vì ai cũng biết Thầy rất vững vàng trong mọi tình huống, báo hại bà chủ nhà phải …khóa cửa đi theo xe, khi gia chủ tình nguyện đi trước dẫn đường cho cô ta ra xa lộ.…hì hì hì…. Ngày vui qua mau, dù đã một tuần lễ trôi qua, nhưng trong tôi vẫn còn vọng mãi những tiếng cười , tiếng nói, tiếng gọi mừng rỡ của những người bạn đã từ lâu mới có cơ hội gặp lại. Và cũng từ ngày hội ngộ, chúng tôi lại có thêm những người bạn mới .

Dù cũ hay mới, tất cả đều đã có một thời gian ngồi dưới mái trường mang tên NGUYỄN HUỆ, vị anh hùng dân tộc bách chiến bách thắng, thần tốc đại phá quân nhà Thanh tan xác tan hồn trong thời gian ngắn kỷ lục.

Xin chân thành cảm ơn quí anh chị trong Ban Tổ Chức, quí Thầy Cô và các anh chị em bạn cũ-mới, đã cho cá nhân chúng tôi những ngày cuối tuần vui thật là vui, cười mỏi cả miệng.

Mong rằng, năm tới và nhiều năm kế tiếp, nếu có cơ hội, và nhiều anh chị em Nguyễn Huệ chịu …vác sừng voi, sẽ có những ngày đại hội thật huy hoàng, đông đảo hơn nữa, để những người ở xa thật xa cũng sẽ tìm về tham dự. “Tương lai gần, quá khứ xa”! nay còn –mai mất. Ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Mong rằng kỳ tới sẽ gặp được nhiều anh chị em hơn nữa. Chừng đó, dù có vui mấy, chắc chẳng dám cười nhiều, sợ khóe miệng sẽ chạy tới mang tai!!!

Xin gửi tặng quí đọc giả Nguyễn Huệ một phần bài dân ca xứ Nẫu:
“Con Qvuịt (vịt) đua dứ (dưới) nước, Chớ con cá lậu (lội) bầu sen,
Hầu (hồi) rày mong gặp bạn qvuen (quen) quá chừng
Bầu (bồi) hầu (hồi) mà thương Phượng chớ nhớ Lon (Loan)
Thức thời thương nhớ chớ ngủ thời chim (chiêm) bao
Đặt mình trên tấm qvuán (ván) sao
Giựt mình thức dzậy chớ nước mắt trào như mưa…….”

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2024

 

LỜI CẢM ƠN MUỘN MÀNG

Lê Thị Hoài Niệm.









Tuyết rơi từ đêm qua đến sáng nay vẫn còn tiếp tục, những hạt tuyết mỏng manh bay bay trong nắng nhẹ, vậy mà vẫn ngập kín đường, ngập gần như nửa tấc, con tôi phải ba lần đi cào tuyết mà con đường trước cửa vẫn đầy sau chừng nửa tiếng đồng hồ tuyết rơi.

 

Nhìn ra đường vắng tanh không một chiếc xe qua lại, đừng nói chi người đi bộ. Thành phố này nằm ở độ cao hơn 7 ngàn bộ so với mặt nước biển nên rất lạnh về mùa đông. Vậy mà chiều nay, trước giờ gia đình tôi chuẩn bị bữa tiệc ăn mừng “Lễ Thanksgiving” thì ông bà Dawson đã đến, đúng như lời hứa với con tôi từ hai tuần trước, khi ông biết chúng tôi sẽ sang thăm con trong ngày lễ.

 

Con gái tôi gặp ông lần đầu ở bữa tiệc sinh hoạt của cư dân trong “subdivision”. Ông nhìn cháu một hồi lâu rồi đến gần hỏi cháu là “người nước nào “?. Ban đầu cháu ngạc nhiên, không biết tại sao ông  hỏi thế, nhưng cháu vẫn trả lời là người Việt Nam, và ông tự giới thiệu ông là “Việt Nam Vet” đã từng tham chiến ở VN đến hai lần. Sau khi biết cháu cũng là “cựu chiến binh Mỹ” nên ông rất vui và bắt chuyện hỏi han đủ điều. Và ngạc nhiên hơn nữa khi biết ba cháu từng là một Pilot trực thăng của quân đội VNCH, ông ta vui ra mặt và hỏi cháu rất nhiều chuyện sau đó, để biết rằng Tuy Hòa, quê hương của mẹ cháu cũng là nơi ông thường lui tới từ những chuyến hành quân. Có lẽ những gì có nơi chúng tôi có gợi cho ông nhiều kỷ niệm, nên ông rất muốn gặp chúng tôi. Và hôm nay ông đến nhà thăm chúng tôi đúng như lời đã hứa với cháu.

 

Ông dọn về thành phố Santa fe mới hơn ba tháng và thuê ngay căn chung cư gần nhà con gái tôi, đó là cơ hội cho ông gặp cháu và hỏi thăm về quê quán gốc nguồn. 

Cháu sinh ra trên xứ Mỹ, chưa biết gì về Tuy Hòa quê mẹ, chưa một lần đặt chân đến nơi đó, thế mà khi ông nhắc đến Tuy Hòa, cháu cũng tò mò muốn biết ông đã đi đến những nơi đâu. Thế là một già, một trẻ, cùng là “cựu quân nhân” trong quân đội Hoa Kỳ, một là đại tá Không quân, một là đại úy Hải quân, vào độ tuổi “cha con” nên ông không ngần ngại gọi cháu là con gái nuôi, vì ông bà chưa từng có tiếng khóc con nít trong nhà trong suốt mấy chục năm qua.

 

 

Trời bên ngoài lạnh lắm, nhưng trong căn phòng khách thật ấm cúng, ấm cúng vì có tiếng lách tách của ngọn lửa nhỏ từ trong lò sưởi lan tỏa khắp căn phòng, ấm hơn vì sự cởi mở trong câu chuyện trao đổi giữa hai người đàn ông, một Việt tóc muối tiêu, một Mỹ tóc bạch kim, hơn nhau vài tuổi đời cùng bên trời lận đận những tháng năm xa xưa đó, nên câu chuyện họ xoay quanh là những kỷ niệm chinh chiến, những con đường, những chuyến bay mà họ đã từng bay qua trên vùng lửa đạn tuy kẻ truớc người sau,... Đúng họ là hai người Lính cũ, cùng là những phi công trực thăng, từng phục vụ trong binh chủng không quân dưới bầu trời nước Việt từ những ngày xa xưa cũ. 

 

Ngày đó đơn vị ông đóng quân ở gần Tuy Hòa, đó là lý do tại sao ông tìm đến với chúng tôi, vì Tuy Hòa là một phần quê hương trong tuổi nhỏ của tôi, một quê hương bỏ lại vì chiến tranh giặc giã lan tràn, nhưng ở đó vẫn có quá nhiều kỷ niệm, Một con đường quê ngày ngày tôi đi học về, phải qua một cây cầu sắt dài có lề cho người đi bộ, mà mỗi lần xe hơi chạy qua là nó muốn hút mình theo. Ở đó có con sông rộng bốn mùa nước trải mênh mộng, chạy ôm luồn ngọn núi nhỏ mà trên đó có ngôi Tháp Nhạn của người Chăm xây dựng nên từ bao thế kỷ trước, đang đứng uy nghi sừng sững cho người lên cúng bái. Và nơí đó người đàn ông Mỹ đã mấy lần lượn vòng lên đó, để khi ông nhắc đến, chúng tôi cũng góp tiếng vào khiến ông vô cùng thích thú. Ông kể chuyện rất vui và ông cũng nhớ nhiều về kỷ niệm hơn một năm trời ông đóng quân gần thành phố đó. Vì dù gì cũng đã hơn năm mươi năm ông mới có dịp ngồi  gợi nhớ lại kỷ niệm, mà tưởng chừng như không bao giờ ông có cơ hội nhắc lại.

 

Phi trường Đông tác cát bụi mịt mù, phi đạo kép chỉ là những rỉ sắt kết lại mà thành. Nó nằm giữa một khu đồng không mông quạnh chỉ có toàn cây dương và dương, xa xa là vùng biển bao la xa ngút mắt. Nơi ông ở nguời ta cũng làm những căn nhà tiền chế, nên cũng đầy đủ tiện nghi, và vùng hành quân của những chiếc trực thăng thuộc đơn vị của ông và những người bạn khắp miền Trung và vùng rừng núi chập chùng, trùng điệp.

 

Có lẽ chúng tôi là người khơi dậy trong tiềm thức của ông về những chuyện hành quân gian khổ trên vùng đất xa lạ, vùng đất có những cơn gió nồm mát mẻ dễ chịu, nhưng cũng có những trận gió …nam lào nóng rát cả thân. Mùa hè đã nóng bức mà khi có những trận gió xoáy từ vùng núi đổ xuống, trên những đồi cát nóng, thật khó mà tả được nỗi vất vả chống trả khí hậu khắc nghiệt này.

 

Ngày ông sang Việt nam phục vụ, chồng tôi chưa vào lính. Nhưng những địa phương ông kể, sau này chồng tôi cũng bay trên những vùng trời đó, nên họ hiểu rất rõ những khó khăn, gian khổ. Ông nói ông thích nhất là vùng biển đẹp Vũng Rô, có nhiều khi ông bay ngang qua đó, dẫu biết nguy hiểm, nhưng ông cứ muốn bay vòng vòng và muốn đáp trực thăng và nhảy ùm xuống tắm vì nước trong xanh và phẳng lặng vô cùng. Những bãi biển ở Mỹ này, ngay cả bên vùng vịnh Mexico không thể nào so sánh được (?).

 

Tự nhiên chồng tôi lên tiếng nhắc:

-Ông hứa sẽ kể cho chúng tôi nghe chuyện tình của ông và người con gái Đông tác khi ông đóng quân ở đó.

Ông liếc ngang bà vợ, rồi làm bộ le lưỡi như không muốn nói, tự dưng ông cười thật sảng khoái và hỏi con gái tôi:

-Laura, ba cháu có kể chuyện tình của ông trong những ngày ông đi lính lúc chưa gặp mẹ cháu cho cháu nghe không?

Thế là câu chuyện xoay quanh những chuyện vui từ hồi xa lắc xa lơ, thuở mà ông mới bập bẹ học vài tiếng Việt để trao đổi với những người vào dọn dẹp phòng ốc cho những người Lính Mỹ xa nhà. May quá, ông không để lại mối tình lớn nào nơi đó, nên không có cảnh con lai đi tìm cha như những đứa trẻ cứ xuất hiện trên báo sau này.

 

Bữa “tiệc” chiều do mẹ con tôi dọn sẵn, không phải con gà tây nướng và những thực phẩm đi kèm như trong những bữa tiệc Tạ ơn của người Mỹ, mà chỉ là những món ăn Việt nam, nhất là chả giò và …nồi phở bốc khói. Vì ông Dawson thích hai món ăn đó nhất.

Ông vừa ăn xong vừa hít hà vì hơi nóng của tô phở bốc lên làm mờ đôi kính cận, ông tháo cặp mắt kính ra để lau và định nói câu gì đó, Nhưng chồng tôi đã lanh miệng hơn, chàng bắt đầu lời nói rất trịnh trọng khiến chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên, nên ngừng lại chờ đợi.

-Chúng tôi vô cùng cảm ơn ông! Ông và bà Dawson. Lời cảm ơn rất chân tình tuy có muộn màng sau hơn năm mươi năm của một người Việt nam tị nạn cộng sản trên đất nước Cờ hoa này.

Ông Dawson hơi bỡ ngỡ khi nghe lời cảm ơn của chồng tôi, ông hơi ngập ngừng một chút rồi phá lên cười thật lớn.

-Le, ông nói gì vậy? Sao ông cảm ơn chúng tôi? Chúng tôi phải cảm ơn ông bà và cháu về bữa ăn “Happy Thanksgiving” chiều nay chứ!

-Không! Mỗi lần tôi gặp một người Việt Nam Vet nào, là tôi rất quý trọng và cảm ơn họ. Tôi cảm ơn ông và nhiều người Mỹ trai trẻ thời đó đã đến phục vụ trên quê hương chúng tôi, quý ông đã hy sinh quá nhiều, đôi khi cả tính mạng nữa, mà có người còn không hiểu rõ hết vì sao phải hy sinh ở một đất nước hoàn toàn xa lạ? Tôi cũng là Lính như ông, nhưng tôi vì bổn phận phải phục vụ tổ quốc mình, còn quý ông…! Làm sao chúng tôi quên ơn những người Lính như quý ông được.

 

Ông Dawson nín lặng không cười nữa, có một sự xúc cảm hiện lên khuôn mặt ông, ông nắm tay bà vợ và bằng một cử chỉ rất thân mật, họ đứng dậy bước sang phía chúng tôi, đưa tay ra nắm chặt lấy bàn tay của chúng tôi. Những cú siết tay không lời và vòng tay ôm thân mật mà vợ chồng ông Dawson thể hiện, là những lời nói tốt đẹp nhất trong mùa Lễ Tạ Ơn năm nay đối với gia đình chúng tôi.

Lê Thị Hoài Niệm.