BÊN TRONG CÁNH CỔNG
SẮT SƠN MÀU ĐỎ.
Lê thị Hoài Niệm
Hắn
phải nghe theo lời vợ, dù hắn không là tín đồ của “đạo thờ bà”, và luôn luôn nhẩm
đọc thân lệnh: kiên định lập trường! Lập trường của một thằng lính bị bắt
buộc…thua trận và phải lưu vong tận xứ người, nhưng nhất quyết không về lại quê
nhà khi nào lá cờ đỏ của phường ăn cướp vẫn còn “ngạo nghễ tung bay” và những
tên Cộng sản vẫn còn nghênh ngang như trêu ngươi những thằng người như hắn.
Nhưng
hắn phải về, vợ hắn nói đúng: “nếu chế độ này nó không sụp mà Mẹ mình sụp thì sao?”
Hắn
nhớ thương Mẹ quá chừng chừng. Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì. Hắn rời xa mẹ hắn
từ ngày ba hắn từ giã chốn dương gian giặc giã lan tràn để về bên kia thế giới
sau một cú đột quỵ. Hắn được đơn vị cho về làm đám đưa tang ba hắn, người đã bỏ
lại mẹ hắn và đám con ba đứa, hắn là thằng con lính lớn nhất nhà. Ngày ấy mẹ
hắn chỉ mới ngoài năm chục, và sau đám tang thì hắn phải trở về đơn vị và miệt
mài với những phi vụ hành quân gian khổ mãi đến khi tan hàng rã đám vẫn chưa về
lại thăm nhà. Bây giờ bà đã già quá rồi, hắn gọi điện thoại thăm bà hoài, dù
thính giác của bà đà lểnh lãng.
Tội
bất hiếu nặng quá! Hắn mà có tội đó với chính người mang nặng đẻ đau sinh ra mình,
nuôi mình khôn lớn thì làm sao mà dạy con? Trường hợp bất khả kháng, không có
cơ hội thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ, “thời cuộc đã đổi khác”(?), nhiều
người vẫn bảo thế. Người ta đi tới đi
lui hà rầm, rủ nhau về du lịch từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc không sót hang cùng
ngõ hẻm nào, miễn sao trong túi rủng rỉnh đô la (đừng bàn ra bàn vô chống
đảng). Hắn phải làm theo “chỉ thị” vợ hắn ban ra: “về thăm Mẹ già trước khi quá trễ!”
Hắn
đành mắt nhắm mắt mở mà về, vì Mẹ!
Chiếc
Toyota 4 cửa chạy chầm chậm để hắn nhìn đường sá. Ngang qua khu phố chợ Long
Hoa, hình ảnh đầu tiên tại quê nhà đập vào mắt hắn vẫn là con đường lầy lội,
bùn đất đỏ tràn lan, những người đàn bà đang xoắn quần lội qua vũng bùn để vào
chợ. Không biết bên trong khang trang, đẹp đẽ cỡ nào? chứ hơn ba mươi năm rồi
mà chung quanh chợ dơ vẫn hoàn dơ, sửa chữa vẫn hoài sửa chữa, làm hắn thất
vọng vô cùng. Ngày xưa trong hoàn cảnh chiến tranh, bị “anh em” phía bên kia về
phá hoại liên miên đã đành, chứ bây giờ sau mấy chục năm hòa bình rồi, sao vẫn
còn lầy lội, bẩn thỉu như xưa?
Xe
chạy ngang qua khu vực Tòa Thánh, trực chỉ về hướng nhà của hắn. Con đường này
ngày xưa rộng rãi, quang đãng thoáng mát, lòng đường trải đá đỏ tuy cũng lắm ổ
gà, nhưng không ồn ào, lại có vẻ thơ mộng, bởi hai hàng cây gòn cổ thụ ven
đường, đổ những bóng dài đan nhau như những chiếc dù che bớt sức nóng của mặt
trời đã ưu ái tặng cho vùng đất miền biên giới này. Nhờ vậy những buổi đạp xe
đi học ở trường tỉnh, con đường dù dài hun hút, vẫn không làm bọn hắn thấy mệt
nhiều, nhất là những buổi trưa hè, đạp xe theo sau “áo trắng tan trường”, dù cả
hai bên đều mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng vẫn mang mang những nét tình tứ, mộng
mơ. Sau này về Sài gòn đi học, con đường Duy Tân có nhiều cây dài bóng mát,
cũng không nhiều bóng cây cao bằng con đường tuổi nhỏ hắn đi qua.
Nhưng
bây giờ thì khác quá, làm hắn lại buồn lòng. Con đường xưa giờ đã hoàn toàn
thay đổi, người ta đã chặt hết cây để nới rộng lòng đường, nhà cửa mọc lên san
sát nhưng vô cùng mất trật tự. Quán xá, tiệm cà phê hát nhạc giựt râm ran, tiệm
cắt tóc, tiệm sửa xe Hon da, nhà may quần áo, nhà bán xi măng, v…v…đầy dẫy hai
bên đường. Chẳng bù với ngày ấy, mỗi một gia đình là một vuông đất rộng thênh
thang, sau vườn đầy ắp cây ăn trái, như nhà hắn có đến 4 cây mít, cứ đến mùa là
quả nặng trĩu cành, trái nào cũng to đoàng ôm không hết vòng tay, chín lừng
thơm nức mũi, chưa nói đến những “dái mít” non vừa bằng vài ngón tay đem chấm
với muối ớt làm rỏ dãi những thằng bạn học dân phố chợ. Rồi thì mãng cầu, nhãn,
sa-pô-chê, còn đu đủ là đồ bỏ v.v…. Thế mà hôm nay, chỉ thấy nhà và người thế
chỗ, xe cộ lên xuống nườm nượp, đất đỏ văng tung tóe, nhất là xe Honda 2 bánh với
tiếng nổ ầm ầm văng khói mù trời đất. Người đâu mà xây cất nhà cửa nhiều quá
vẫn là câu hỏi lởn vởn lờn vờn trong đầu hắn.
Xe
chạy chầm chậm ngang qua khuôn viên trường tiểu học, hắn chợt mừng vì biết đã đến
gần nhà, vì ngôi trường này là nơi đầu tiên thầy giáo dạy cho hắn biết cầm cây
bút nắn nót khuôn chữ đầu tiên và đọc hết vần a-b-c. Đã bao nhiêu năm rồi không
có gì thay đổi ngoài bảng hiệu tên trường. Hình như học trò quá đông mà phòng
ốc vẫn y nguyên, lớp sơn loang lổ, sân trường vẫn nền đất hoang sơ, chỉ hai cây
cổ thụ bên hông trường là lớn thêm theo năm tháng. Hắn thở dài vì một thoáng so
sánh vắt ngang qua bộ nhớ. Cạnh nhà hắn phía bên kia nửa vòng trái đất, cũng chỉ
một trường tiểu học, mà sao nó đồ sộ, khang trang to lớn hơn cả một trường …đại
học bên này. Hắn buồn.
Một
thoáng ngỡ ngàng khi chiếc xe dừng hẳn lại trước cánh cổng sắt màu đỏ, thằng
cháu đi về cùng với người tài xế xe quen
của nó, nhe răng cười và nói đã tới nhà rồi.
Hắn
bước xuống xe mà chân loạng choạng, nửa muốn bước tới, nửa lại chùn. Sự ngại
ngần trước căn nhà như xa lạ đã kiềm hãm sự thôi thúc muốn bương chạy ào vào
nhà để gọi mẹ, để được ôm bà vào lòng, để được sờ nắn hình hài, vóc dáng thân
yêu của người mẹ già sau ngần ấy năm xa cách, và cả người em gái của hắn nữa. Ngày
hắn đi, con bé còn độc thân, bây giờ đã con đàn con đống. Nhưng cánh cổng sắt sơn màu đỏ đã chận ngang
sự nôn nóng trong lòng hắn. Hắn chỉ đứng xa những chấn song và cất cao tiếng
gọi mẹ sau lời gọi mở cổng của thằng cháu..
Người
đàn bà đứng tuổi chậm chạp cầm cái chìa khoá tra vào ổ, cùng lúc ngó chăm chăm
vào hắn, như muốn hỏi ai đây, thằng cháu cười cười hối thúc mở cổng lẹ lên.
Cổng
mở. Hắn muốn nhào tới ôm lấy em gái hắn, nhưng không biết tại sao hắn không thể
nào thể hiện tình cảm của mình, có lằn ranh vô hình nào đó đã hiện hữu trong
tình thân giữa anh em hắn. Và người em đã làm thay hắn, khi biết người đàn ông đứng đó là anh ruột của mình đã trở
về thăm nhà sau ngần ấy năm dài. Cô ta hét thật to và nắm tay hắn ù té chạy vào
nhà gọi mẹ.
Mẹ
hắn quờ quạng cầm cây gậy lần bước đi. Hắn đứng chết trân và khóc lớn tiếng. Mẹ
hắn già nua bệnh tật như vậy sao? Hắn ôm chầm lấy mẹ, nhấc bổng bà lên và xoay
bà mấy vòng với nước mắt nước mũi chảy dài, nụ cười nhăn nheo của bà làm hắn
càng khóc to hơn nữa. Hắn khóc nhưng mọi người chung quanh cười vui, ngay cả mẹ
hắn lúc đầu khóc nhưng sau đã cười to vui vẻ.
Ngày
về nhà đầu tiên của hắn đâu khác chi triệu người bỏ xứ ra đi ngày ấy. Hắn biết
mẹ hắn là người vui nhất, bà cười nói huyên thuyên, bà hỏi trăm ngàn chuyện,
hắn cứ để bà tự nhiên nói, hắn trả lời ít ỏi, vì đôi tai nghễnh ngãng nghe câu đựơc câu mất của bà. Hắn thương mẹ
quá chừng chừng. Bà càng sờ soạng lên hình hài đứa con trai bao nhiêu, nỗi ân
hận dày vò trong hắn lại cuồn cuộn trào dâng ngần ấy. Hắn hối tiếc, phải chi
hắn về sớm hơn vài năm, thì mẹ hắn đã nhìn rõ dung nhan đứa con trai lớn của
mình. Và bà đã nghe rõ được những lời yêu thương trìu mến từ cửa miệng đứa con
một cách rõ ràng, thích thú.
Hắn
vui lắm! hắn thầm nói lời cảm ơn tới vợ hắn đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Cảnh
mẹ và con gặp nhau, tình cảm chất chứa bao năm nó tuôn tràn như dòng suối mùa
lũ, nó chảy cuồn cuộn, ào ào, liên tục làm quặn lòng thằng người luôn dùng lý
trí để xét suy, hành xử mọi việc. Chỉ mới quá nửa ngày, mà mẹ con hắn đã đi lại
một quãng đường của thời gian hơn ba mươi năm dài đằng đẵng.
Ngày
ấy, trong căn phòng hành quân của phi đoàn ở vùng 4 chiến thuật (Bình Thủy-Cần
Thơ), nơi mà có những vị Tướng anh hùng, tuyên bố sẵn sàng chọn địa thế này làm
căn cứ địa “tử thủ” để chống bọn Cộng sản xâm lăng, nếu thủ đô lỡ lọt vào sự
kiểm soát của quân địch. Hắn nhìn thấy “bảng phi vụ” có sẵn tên phi hành đoàn,
số máy bay, nhưng thiếu giờ bay và nơi làm việc, nên cứ ngồi chờ (stand-by), mà
không biết rằng đã có những cấp chỉ huy cũng như vô số bạn bè đà bỏ ngũ trốn đi.
Câu: “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” mà hắn vẫn thường nghe người ta ca tụng, đối với hắn, thật mỉa
mai và chua xót, nhiều lúc muốn hét toáng lên và chửi đổng. Anh
em không bỏ, nhưng đã không thông báo cho nhau khi rời căn cứ. Bạn
bè không bỏ, nhưng đa số đã âm thầm, lặng lẽ tìm đường thoát thân cho
riêng cá nhân và gia đình mình. Chỉ có hắn và một số ít đồng đội là triệt để
tuân hành kỷ luật, dù pháo địch đã bắt đầu bắn vào phi trường. Mãi đến khi nghe
“Thông điệp” tuyên bố đầu hàng Cộng sản của Tổng thống Dương văn Minh từ chiếc
radio nhỏ trên bàn, làm bọn hắn rụng rời, chết điếng. Thế là hết!
Rồi
trong cơn hỗn loạn, hoang mang cùng tột, hắn đã cùng mấy đồng đội chạy bay tóc
băng qua phi đạo, nơi đang bị đạn pháo của địch bắn nổ rền trời. May quá còn
chiếc trực thăng nằm im lìm trong “ụ” như chờ đợi bọn hắn đến để phục vụ lần
cuối. Tiếng nổ của máy và cánh quạt quay đều, bình xăng còn đầy làm hắn cảm
thấy nhẹ người, vội cất cánh bay lên. Ngồi trước cần lái, người đầu tiên hắn
nhớ đến là mẹ. Hắn đã muốn quay đầu chiếc trực thăng bay về với mẹ, rồi sẽ ra
sao thì ra. Nhưng những đồng đội trên tàu đã ngăn không để hắn làm theo điều
hắn nghĩ. Nước mắt lưng tròng, hắn đã gọi thầm tên mẹ để nói lời từ giã và điều
khiển con tàu quay mũi về hướng Côn sơn theo yêu cầu của đa số.
Để
rồi cuối cùng, dưới cơn mưa tầm tã, những giọt mưa buồn hay là giọt nước mắt
tức tưởi của những người lính, mà suốt thời trai trẻ đã gắn liền với chiếc áo
lính và những cuộc hành quân chống giặc. Chiếc trực thăng của hắn đang bay,
cũng cùng số phận của nhiều trực thăng đơn vị bạn, khi đáp xuống sàn tàu chiến
hạm Mỹ. Hắn đâu còn đủ can đảm để tự mình “đập tàu xuống nước”, nên chỉ biết
đứng nhìn con tàu đã cưu mang mạng sống của chính mình và biết bao nhiêu người
trong ngần ấy năm tháng bị xô xuống biển sâu mà lòng quặn đau như bị mũi dao
nhọn xoáy vào, càng nhìn càng buồn nẫu ruột. Nhưng nỗi buồn cũng bị xé nát từng
mảnh nhỏ trước cảnh tượng ồn ào, hoang mang lo lắng của rất nhiều người đồng
cảnh ngộ.
Điều
an ủi đã được yên bình cho bản thân, không làm hắn quên đi nỗi uất hận thương đau.
Nhất là khi tàu cặp bến “Subic bay” của nước Phi luật Tân, Tổng thống Marcos
của nước đồng minh VNCH mới tuần trước, giờ đã quay ngược 180 độ, ra lệnh …lột
hết những bộ đồ trận, nón, giày của những người đang còn khoác bộ đồ Lính VNCH
trên người. Hắn cởi bỏ bộ đồ bay mà hồn vía cũng bay theo, người lâng lâng muốn
ngã quị. Người ta trao cho hắn chiếc áo thun trắng và quần màu xanh đậm của “US
Navy” rộng thùng thình để mặc vào người, che dấu một nỗi tủi nhục cùng tột.
Trong hắn lúc đó là nỗi buồn, sự giận dữ và niềm uất hận đang chen lấn nhau qua
từng hơi thở. Hắn hận cho chính mình bất lực, cuối cùng cũng “trốn chạy”, bị sỉ
nhục vì làm người Lính thua cuộc, dù rằng trong những năm khoác chiếc áo bay,
hắn cũng đã vào sinh ra tử, lê lết trên thân tàu từ vùng hai tới vùng bốn chiến
thuật, từ lúc còn ở phi trường Nha Trang, rồi Sóc Trăng sang tận Bình thủy- Cần
Thơ, đã hai lần bị đạn phòng không của địch bắn rớt phải vào quân y viện. Để
cuối cùng phải ra đi trong tức tưởi không lời từ giã. Hắn xa hẳn mẹ từ những
ngày tháng đó.
Mẹ
hắn, như có mắt thần soi thấu tâm can phèo phổi của đứa con, nên hiểu được tâm
trạng của hắn từ lâu đã không trở lại nhà. Trước khi đưa miếng trầu với cau vào
miệng, xỉa cục thuốc, thói quen của bà cụ hằng ngày, bà đã mò mẫm cầm tay hắn,
bóp bóp mấy cái rồi chậm rãi:
-Bay
đã dzề rồi, má gặp lại một lần như dzầy trước khi đi gặp ba bay là tao mãn
nguyện. Tao biết, bay có khó khăn, khó xử. Nhưng thôi con à, chuyện gì cũng qua
lâu quá rồi, có để mãi trong lòng cũng chẳng được gì đâu. Thiệt ra, nhà này
được bình an là cũng nhờ Nó, nếu không có nó đứng ra đỡ đần, che chở, thì tao
với em gái bay làm sao chịu thấu, suốt ngày chúng nó cứ kêu lên xã để “làm
việc” hỏi cung tra khảo, có làm ăn gì được đâu. Rồi bắt tao đi tìm, kêu bọn bay
dzề, đi đâu kêu? Bao tháng năm dài có biết gì tin tức tụi bay đâu? Sống hay
chết còn không biết mà, tao với em bay cuối cùng đành chấp nhận nó để mà sống
sót con à! Có Đấng Chí Tôn thương xót, sau đó bay nhắn tin dzề, còn sống ở bển.
Má mừng. Từ khi thấy người ta dzề nước nhiều, tao dzà em bay cũng có mong bay
dzề, nhưng bay cứ hẹn qwài mà không thấy dzề. Cũng may bay có gọi điện thăm
thường xuyên, dzà gửi tiền dzề nuôi nấng gia đình đầy đủ, thôi dzậy cũng được.
Cuối cùng bay cũng đã dzề, giờ má có chết cũng mãn nguyện!
Buổi
chiều, hắn và người em đang ngồi tâm sự trước cửa nhà, có người mở cánh cổng
sắt đi vào trên tay cầm mấy lá “cờ đỏ sao vàng”. Hắn khựng lại và nhìn trân
trối vào người đàn ông trông gầy gò, đen đủi, ốm yếu, được em hắn giới thiệu là
“ba của mấy đứa nhỏ”.
Người
đàn ông niềm nỡ bắt tay hắn. Bàn tay xương xẩu, lạnh ngắt, tự nhiên làm hắn
rùng mình.
Bữa
cơm chiều đơn sơ, đạm bạc đầu tiên trong căn nhà mới, trên nền đất cũ của bao
nhiêu năm tuổi nhỏ làm hắn chạnh lòng. Hắn trệu trạo những hạt cơm cứng ngắt,
có cái gì đó ngăn chận, làm những hạt cơm như muốn dừng lại nửa chừng ở cuốn
thực quản. Hắn gần như mắc nghẹn, khi người đàn ông là em rể hắn bắt đầu vào chuyện :
-Nước
nhà đã “giải phóng” lâu lắm rồi, đã hơn 3 chục năm rồi, nhưng sao mãi đến bây
giờ anh Hai mới dzề?
-Ừ
thì bận lo làm ăn nuôi con vậy mà!
-Tôi
không nghĩ đó là lý do chính đáng. Chắc anh Hai lo sợ một điều gì? “Đảng và
nhân dân ta” lúc nào cũng coi “Việt kiều” là những “khúc ruột xa ngàn dặm”. Ngày
trước lỡ ra đi thì bây giờ hãy trở về để xây dựng quê hương, Đảng và nhân dân
ta rất “khoan hồng” và kêu gọi “xóa bỏ hận thù” lâu rồi mà, chắc ở nước ngoài
anh cũng đã biết?
Rất
bực bội, hắn ngó mẹ hắn, nhưng bà đâu có nhìn thấy nét mặt khó coi của hắn. Người
em gái hắn, có lẽ “vô tâm” nên cứ ép hắn ăn, thằng cháu thì nín thinh ngó lơ
chỗ khác. Tìm cớ thoái thoát, hắn ậm ờ:
-Cũng
có ý định về thăm nhà, nhưng bận làm kiếm tiền để lo cho mấy đứa nhỏ ổn định
việc học hành tới nơi tới chốn..
-Thiếu
gì người có con phải lo, nhưng người ta dzẫn dzề hằng năm!
-Ừ
thì…
Hắn
bỏ lửng câu trả lời, sự uất nghẹn đang dấy lên, muốn thoát ra nhưng cứ bị chặn
lại nên nó càng muốn bứt, sự bực bội dồn trên khuôn mặt. Hắn đang tự hỏi có nên
nói ra những điều hắn nghĩ từ bấy lâu nay, hay nghe lời mẹ hắn mà bỏ qua tất
cả, mua sự im lặng trong những ngày còn ở lại để mẹ hắn vui lòng? Thằng cháu
nhìn mặt hắn, hình như đã hiểu đôi phần bèn gỡ rối:
-Ba
để cho cậu ăn cơm, đi từ sáng giờ, cậu đói lắm rồi.
Mẹ
hắn biết được tâm trạng hắn, cũng góp lời:
-“Trời
đánh tránh bữa ăn”, đứa nào muốn nói gì thì ăn xong hãy nói.
Bữa
cơm đầu tiên trong gia đình hơn ba mươi năm gặp lại, rồi cũng trôi qua. Hắn cố
gắng nhìn kỹ người đàn ông, bây giờ là em rể hắn. Người đàn ông này mà là “kẻ
thắng trận sau cuộc chiến?”
Với
vóc dáng gầy gò, ốm yếu, con người khắc khổ trông già nua trước tuổi, nhưng nét
mặt nhìn kỹ cũng không mấy thay đổi với người thanh niên ngày trước hắn gặp
cũng tại nhà này.
Ngày
đó, trong “Thánh thất”, nơi Ba hắn thường đi lễ, Ông đã gặp và động lòng trắc
ẩn nên dễ dãi cho người thanh niên này đến nhà ở nhờ, vì nghe đâu hắn bị “mồ
côi cha mẹ”, không nơi nương tựa nên phải vào chùa ở. Người thanh niên trông bề
ngoài rất “ngoan đạo”, biết chữ nghĩa
và chơi đàn tranh rất hay, được mọi người trong đạo có cảm tình. Biết ba hắn
thích đờn tranh, nên đã không ngần ngại đến gần làm quen và hứa đến dạy đờn cho
ông Cụ. Mục đích anh ta đã đạt được
trong mấy năm dài, khi mà nhà hắn trở thành một nơi chốn an toàn, và nơi mọi
tin tức hành quân gì của “phe ta” đều được người thanh niên thâu lượm hết. Bao
nhiêu bạn của hắn đã đến nhà thăm chơi, bao nhiêu người có chức sắc trong cảnh
sát, trong quân đội, đều tạt ngang qua nhà hắn nói chuyện với ba hắn râm ran, vô
tình khai vanh vách nay “tảo thanh” chỗ này, mai đi hành quân chỗ kia, nhất là
những “căn cứ địa” của bọn cộng sản nằm vùng. Hắn không biết rõ ngày đó có bao
nhiêu cuộc hành quân của “phe ta” bị thất bại? nhưng rõ ràng là hắn cảm thấy
giật mình khi nhớ lại. Một “thằng phi công” về thăm nhà, ngồi nói chuyện với tên
“cộng sản nằm vùng” mà không hề hay biết.
Nhìn
quanh một lượt, hắn đặt câu hỏi:
-Tại
sao nguyên cả xóm mình, không nhà nào bị bom, bị cháy, mà chỉ có nhà mình bị?
Hắn muốn chính tai nghe được câu trả lời thỏa đáng sau nhiều năm bị ấm ức mà chưa
biết hỏi ai.
Người
đàn ông suy nghĩ một chút rồi trả lời:
-Không
dấu gì anh Hai, trước khi cả nước được “giải phóng”, nhà mình được chọn làm căn
cứ cho “cách mạng” đặt bộ chỉ huy cơ sở, nên “bọn Nguỵ” nó chấm tọa độ pháo
kích vào. Lúc đó thì mẹ và nhà em đã được “cách mạng đưa sơ tán” vào Chùa ở
rồi.
Hắn
tức muốn lộn ruột lên khi phải ngồi nghe những từ ngữ “cách mạng, nhân dân,
giải phóng, khoan hồng..v..v..”, mà từ lâu hắn ghét cay ghét đắng. Hắn muốn hét
thật to cho vơi đi sự nghiệt ngã, trớ trêu. Thì ra chính hắn và gia đình hắn
cũng đã góp phần vào việc làm “mất nước!” Dù vô tình, nhưng đã lơ là không truy
xét “hồ sơ lý lịch” của đối phương. Mà làm sao xét được, khi mà trong phủ Tổng
thống cũng đầy dẫy những tên “Cộng sản gộc nằm vùng”, ngay cả trong binh chủng
không quân của hắn, cũng có khối binh sĩ, hạ sĩ quan, ngay cả sĩ quan mặc quân
phục không quân Quốc gia mà hoạt động cho cộng sản như tên Pi-lot Nguyễn Thành
Trung chẳng hạn. Hắn nghĩ vừa giận vừa thương cho những người quốc gia quá
trọng tình người, quá nhân bản, quá dễ dãi để cuối cùng làm người bị thua cuộc
một cách tức tưởi, thảm hại..
Người
đàn ông tiếp lời:
-Anh
Hai đã dzề tới nhà rồi, cả nhà đều đoàn tụ, cũng nhờ ơn “cách mạng”. Bao nhiêu
năm nay tui lo cho gia đình này, hôm nay anh có mặt ở đây, nên ngày mai tui mời
anh Hai lên thăm “cơ sở ủy ban nhân dân hành chánh xã”, dù gì tui cũng từng là
“bí thư chi bộ đảng”, không lẽ tui không “động viên” được “Việt kiều” về nước
“đóng góp” cho xã ta.
Như
thế này là quá rồi. Hắn muốn “tranh luận” với người đàn ông đang nhân danh “cách
mạng” mà ra điều kể ơn rằng thì là: nếu không có cái tên Hồ tặc du nhập cái
đảng cộng sản hắc ám vào nước VN, và không có những tên nằm vùng, những tên
cộng sản miền Bắc xâm lấn miền Nam, thì làm gì có chiến tranh giặc giã, để hắn
phải làm người Lính bảo vệ miền Nam với hai lần suýt chết, làm gì có cảnh ly
tan, cửa nhà hắn đâu bị đạn pháo cày tan nát, mẹ và em gái hắn đâu lâm vào cảnh
bị chèn ép để anh ta nhảy ra làm “ân nhân cứu mạng” rồi bây giờ đi kể công?
Nhưng hắn nhìn mẹ hắn, nhớ lời bà vừa dặn hồi xế trưa, lại nhớ thêm lời vợ căn dặn
trước khi lên máy bay:
-Về
nhà, dượng Tư có nói gì thì
cũng cố mà nhịn, mục đích là về thăm mẹ. Anh không có ưu thế nào để đi tranh
cãi với một tên cộng sản còn gắn chặt hình ảnh đôi dép râu, cái nón tai bèo.
Dượng ấy bị đầu độc quá lâu rồi, từ khi sống chui sống nhủi trong hóc hiểm trên
núi Bà Đen chờ đêm đêm lẻn đi “giựt cầu, phá đường”. Nơi mà trên đầu suốt ngày
trực thăng bay lên xuống xành xạch, dưới đất là lính đi lùng ban đêm. Mãi đến khi vô chùa Cao Đài làm tên “hiền huynh tu sĩ giả” mới dễ thở(?). Dưới mắt
dượng ấy, anh cũng vẫn là một “tên giặc lái, tay sai đế quốc Mỹ”, và vẫn là
“người thua trận nên bỏ chạy”. Dù anh có hét toáng lên rằng anh đi chiến đấu để
bảo vệ miền Nam, chống bọn cộng sản xâm lăng từ miền Bắc, thì hãy coi chừng,
chuốc họa vào thân. Nhớ mục đích là về thăm mẹ, không phải lúc để làm công tác
đấu tranh! Bọn chúng thù dai và tiểu nhân lắm, chuyên xài luật rừng,
chúng mà kêu lên xã để “làm việc” là không có ngày về, nếu không đưa nhiều tiền
ra để “đấm mõm” bọn chúng, một hành động “làm
tiền” rất có hệ thống, lớp lang với đầy đủ vũ khí trong tay. Hãy nhớ, mỗi
người một hoàn cảnh, hoàn cảnh nhà mình nó trớ trêu, phức tạp, miễn mình đừng
làm gì trái với lương tâm, đừng đứng dưới lá cờ máu của họ mà tuyên bố vung vít
như tên tướng hèn râu kẽm của binh chủng anh, là không ai phiền trách gì đâu…
Hắn
thở dài, tập vài hơi thở theo bài tập khí công để điều hòa lại nhịp đập con tim.
Có ở trong cảnh ngộ mới thấm được nỗi đau, sự bực bội. Làm sao hắn có thể nói
chuyện bình thường với người “cộng sản giáo điều” này, dù trong gia đình, có vị
thứ anh vợ-em rể, nhưng hai ý thức hệ vẫn là hai lằn ranh cách biệt, hắn ghét
cay ghét đắng lá cờ máu kia, lý do chính trong nhiều năm nhất định không về
thăm mẹ, vậy mà phải nhìn ngồi người em rể vác về để sờ sờ trước mắt.
Hắn tự hỏi: chẳng lẽ mình cũng là một người
hèn? Không! ngày đó hắn “anh hùng” lắm chứ. Có những cuộc hành quân tiếp tế,
chứng kiến trực thăng bạn bị cháy ngay trong vùng trời trước mặt, nhưng hắn vẫn
bay qua dàn phòng không của địch để lao vào đạp những ống chứa nước bằng đạn
pháo binh cho tiền đồn mà binh sĩ gần như sắp chết khát, hoàn thành phi vụ. Có
những chuyến bốc quân, địch nã pháo gần ngay bãi đáp, nhưng hắn vẫn đưa con tàu
xành xạch sà xuống để lính nhảy lên. Nhiều chuyến tản thương, mà bộ đồ bay dính
toàn là máu, túi áo bay lúc nhúc những “dòi bò” vì không kịp kéo kín “phẹc-mơ-tuya”.
Những ngày ở xứ người, hắn cũng đã tích cực đóng góp, tham gia vào những cuộc
biểu tình, mít-tinh để chuyển lửa về trong nước, ủng hộ những người đấu tranh
dân chủ v..v..
Nhưng
bây giờ, ngồi đây, ngồi để nhìn một người đàn ông gầy gò, đen đủi, già nua “lên
lớp” mà không thể mở lời đối đáp được
sao? Hắn bèn gạt qua một bên lời mẹ và vợ dặn, phản ứng lại thật mạnh dạn sau
khi nhờ thằng cháu nấu ấm trà nóng với mấy cái tách để ngồi …đối ẩm tâm sự.
Hắn
bắt đầu với giọng nói chậm mà rõ:
-Bây
giờ tôi không nói chuyện với anh (hắn lịch sự gọi người đàn ông) về cái đảng
cộng sản, về nhân dân, về cách mạng gì ráo, ba chuyện đó đối với tôi chỉ là sự tuyên
truyền láo khoét. Chỉ có ngần ấy chữ mấy anh cứ nói tới nói lui như con vẹt. Tôi
chỉ hỏi anh một câu đơn giản, và hãy thành thật trả lời: bao nhiêu năm nay nhà
này làm sao có tiền để sinh sống, xây cất lại nhà cửa và con anh có thể lên Sài
gòn học đại học?
-Thì
do anh chị ở bên ngoài gửi về giúp.
-A
ha! Vậy tiền đó là tiền Mỹ hay tiền Hồ?
Người
đàn ông khựng lại, hắn được thể nói tiếp những điều rất thực tế, dễ hiểu may ra
giúp người em rể, người cộng sản quanh năm suốt tháng lẩn quẩn lần quần trong
cái xã xa thành phố, có thể “tỉnh ngộ”. Hắn đang làm công tác “tư tuởng”
ngược? Có lẽ từ trước đến giờ chưa ai
nói, không dám nói hoặc không thèm nói cho anh ta nghe, cứ nhịn mãi như mẹ hắn
và cả em gái hắn nên anh ta không nhìn rõ được thực hư?.
-Tôi
nói cho anh nghe, bao nhiêu năm anh đi “làm cách mạng”, gây tang tóc điêu linh
cho bao nhiêu người, cuối cùng anh được cái gì đâu, chỉ tôi xem? Chung quanh
làng xóm của anh được cái gì, hay cũng còn nghèo xơ, nghèo xác? Lúc nào mở
miệng ra cũng cách mạng, cũng nhân dân, mà không đủ sức nuôi nổi một gia đình.
Anh còn mơ ngủ, hay không chịu sáng mắt ra. Mấy thằng cộng sản chóp bu, lãnh
đạo cái đảng của anh, chúng nó giàu nứt đố đổ vách do ăn cướp của nhân dân, ăn
hối lộ không nương tay, con chúng nó vung tiền ăn chơi như rác. Còn anh, suốt
ngày cứ khư khư cách mạng, nhân dân, ôm ba cái lá cờ đỏ, lá cờ hại dân hại
nước, tôi ghét cay ghét đắng. Anh khư khư giữ nó có thể thế cơm no bụng được
không? Hay no bụng nhờ cơm áo gạo tiền từ xứ Mỹ?
Người
đàn ông rướn mặt lên ngó chăm bẳm vào hắn, sự ngạc nhiên hiện rõ lên nét mặt.
Được thể đứa cháu tiếp:
-Cậu
nói đúng đó Ba à, bao nhiêu lâu nay con muốn nói cho ba hiểu ra, nhưng con sợ
ba buồn. Người ta làm “cách mạng” giàu có, còn ba thì cứ ôm cứng bác Hồ, cái
đảng cộng sản của ba, sợ bị phê bình là hủ hóa, sợ kiểm điểm gì đó, rốt cuộc
nhà mình nghèo rớt mồng tơi, may mà con xuống thành phố học hành rồi làm việc
cho công ty nước ngoài, nên cũng đỡ khổ. Nếu không có cậu mợ giúp đỡ thì nhà
mình làm sao được như dzầy..
-Sao
con ăn nói “phản động” dzậy?
-Ba
với mấy đồng chí của ba cứ hay dùng từ phản động để áp đặt lên “tư duy” của
người khác! Đứa cháu tiếp: Con và lũ bạn con từ lúc hiểu biết sự đời, tụi nó
đâu có thèm để ý đến “Bác, đảng, cách mạng” gì đâu, miễn sao khi ra khỏi trường
đại học, tìm được một chỗ làm tốt, thường là các công ty nước ngoài, sống thoải
mái là được. Đứa nào mà vô đảng, chẳng qua chúng nó là con ông cháu cha, học
dốt lại muốn làm ông to, bà lớn. Lớp nữa muốn tiến thân bằng con đường tắt, đâu
có đứa nào còn tin đảng nữa, nhưng chúng không ngu gì nói thật, sợ công an
tới nhà còng tay dẫn đi, chụp cho đủ tội lỗi nào là âm mưu chống đối đảng, phá
hoại cách mạng, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, mặc dù không người nào có
một cây đinh ở trong tay, rõ ràng ai cũng biết cái “đảng của ba” đã dùng “bạo
lực cách mạng” để đàn áp người ta mà!
-Nhưng
mà…
-Không
nhưng nhị gì cả! hắn bồi thêm: nước Việt nam bây giờ đâu còn “xã hội chủ nghĩa”
nữa, tụi nó theo tư bản hết rồi, mà bày đặt gọi “kinh tế thị trường” cho khác
chế độ trước. Chúng đem “Bác Hồ” ra làm bình phong, dùng công an trị để doạ
nạt, bắt bớ, bỏ tù những ai không a-dua theo bọn chúng. Ngày mai, anh thử lên
xã ghi tên nghỉ mấy ngày, tui sẽ đưa anh và cả gia đình lên Sài gòn, để anh
nhìn thấy bọn cán bộ chóp bu cái đảng của anh sống như thế nào, hay là nhờ có “cách
mạng, nhân dân” mà tên nào cũng ở nhà lầu, đi xe hơi sang trọng, sống như ông
hoàng bà chúa, con cái thì cho sang Mỹ, sang Anh du học, mua nhà to cửa lớn sống
đời vương giả. Còn anh và một số đảng viên quèn cứ đem cái đảng ra dọa, ai nói
đụng tới là bắt bớ giam cầm, làm khó dễ bà con…
Hắn
nói xong một hơi, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhưng cũng giật mình thót bụng.
Bao nhiêu năm ở xứ sở tự do, muốn nói gì thì nói, nhiều khi có kẻ khơi khơi kêu
tên “tổng thống” ra xài xể chơi, nhưng cũng chẳng bị gì. Có điều ở đó hắn nói,
mà người nghe cũng đồng cảnh với hắn. Ở đây, trước mặt hắn là người cộng sản
chính cống, dù chỉ là một tên cộng sản tép riu. Nhưng sự “bằng mặt không bằng
lòng” sẽ khiến hắn bị công an còng tay bỏ vào tù, tẩn cho một trận, hoặc bắt
“làm việc” liên miên để khủng bố tinh thần là điều có thể xảy ra. Hắn lại càng
không muốn làm “người hùng nổi tiếng”, khiến vợ con hắn ở bên kia phải chạy đôn
chạy đáo để kêu cứu, nhờ sự giúp đỡ, để cứu hắn ra. Mới nghĩ đến điều đó, hắn
đã ớn xương sống. Thôi thì đàng nào hắn cũng đã có mục đích “về thăm mẹ”, không
thể làm phiền đến gia đình, vợ con và những người đang đấu tranh chống cộng. Cả
nước chín chục triệu người còn “ớn” mấy triệu đảng viên (???), hơn ba triệu
người đi tị nạn, cũng chưa thấy làm gì để dẹp hẳn được lá cờ đỏ kia, liệu một
mình hắn, với vài câu nói bình thường, đâu đáng để “tàn đời trong ngõ hẹp?”.
Nếu có bị chê là hèn, cũng đành!.
Thế
là hắn đã đưa mẹ và em gái lên thành phố ở cho đến khi hắn về lại Mỹ, dứt lòng rời
xa, từ giã luôn căn nhà có cánh cổng sắt sơn màu đỏ, dù đó là nơi chôn nhau cắt
rốn và rất nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ.
Lê thị Hoài Niệm