Thứ Ba, 6 tháng 5, 2025

 









Vườn thơ

Đêm qua tròn giấc ngủ mơ

Xinh xinh nhà nhỏ vườn thơ trữ tình

Chậu hoa giấy dáng xinh xinh

Nụ hoa tim tím rung rinh nắng chiều

 

Gió lay hồng nụ liêu xiêu

Mấy nàng hoa sứ làm kiêu khoe màu.

Hoa vàng thua kém chi đâu

Vươn cao trong nắng tựa đầu tường xây

 

Clematic hoa tím đầy

Nên nàng dâm bụt khoe ngay sắc màu

Hoa lan lả lướt trên cao

Cẩm tú cầu đẹp, chen vào hoa tôm.

 

Giấc mơ trôi nhẹ êm đềm

 Giật mình thức giấc ra xem, hoa cười.

Lê Thị hoài Niệm

 


BÊN TRONG CÁNH CỔNG SẮT SƠN MÀU ĐỎ.

Lê thị Hoài Niệm

           

            Hắn phải nghe theo lời vợ, dù hắn không là tín đồ của “đạo thờ bà”, và luôn luôn nhẩm đọc thân lệnh: kiên định lập trường! Lập trường của một thằng lính bị bắt buộc…thua trận và phải lưu vong tận xứ người, nhưng nhất quyết không về lại quê nhà khi nào lá cờ đỏ của phường ăn cướp vẫn còn “ngạo nghễ tung bay” và những tên Cộng sản vẫn còn nghênh ngang như trêu ngươi những thằng người như hắn.

            Nhưng hắn phải về, vợ hắn nói đúng: nếu chế độ này nó không sụp mà Mẹ mình sụp thì sao?”

            Hắn nhớ thương Mẹ quá chừng chừng. Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì. Hắn rời xa mẹ hắn từ ngày ba hắn từ giã chốn dương gian giặc giã lan tràn để về bên kia thế giới sau một cú đột quỵ. Hắn được đơn vị cho về làm đám đưa tang ba hắn, người đã bỏ lại mẹ hắn và đám con ba đứa, hắn là thằng con lính lớn nhất nhà. Ngày ấy mẹ hắn chỉ mới ngoài năm chục, và sau đám tang thì hắn phải trở về đơn vị và miệt mài với những phi vụ hành quân gian khổ mãi đến khi tan hàng rã đám vẫn chưa về lại thăm nhà. Bây giờ bà đã già quá rồi, hắn gọi điện thoại thăm bà hoài, dù thính giác của bà đà lểnh lãng.

            Tội bất hiếu nặng quá! Hắn mà có tội đó với chính người mang nặng đẻ đau sinh ra mình, nuôi mình khôn lớn thì làm sao mà dạy con? Trường hợp bất khả kháng, không có cơ hội thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ, “thời cuộc đã đổi khác”(?), nhiều người vẫn bảo thế. Người ta  đi tới đi lui hà rầm, rủ nhau về du lịch từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc không sót hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao trong túi rủng rỉnh đô la (đừng bàn ra bàn vô chống đảng). Hắn phải làm theo “chỉ thị” vợ hắn ban ra: “về thăm Mẹ già trước khi quá trễ!”

            Hắn đành mắt nhắm mắt mở mà về, vì Mẹ!

 

            Chiếc Toyota 4 cửa chạy chầm chậm để hắn nhìn đường sá. Ngang qua khu phố chợ Long Hoa, hình ảnh đầu tiên tại quê nhà đập vào mắt hắn vẫn là con đường lầy lội, bùn đất đỏ tràn lan, những người đàn bà đang xoắn quần lội qua vũng bùn để vào chợ. Không biết bên trong khang trang, đẹp đẽ cỡ nào? chứ hơn ba mươi năm rồi mà chung quanh chợ dơ vẫn hoàn dơ, sửa chữa vẫn hoài sửa chữa, làm hắn thất vọng vô cùng. Ngày xưa trong hoàn cảnh chiến tranh, bị “anh em” phía bên kia về phá hoại liên miên đã đành, chứ bây giờ sau mấy chục năm hòa bình rồi, sao vẫn còn lầy lội, bẩn thỉu như xưa?

 

            Xe chạy ngang qua khu vực Tòa Thánh, trực chỉ về hướng nhà của hắn. Con đường này ngày xưa rộng rãi, quang đãng thoáng mát, lòng đường trải đá đỏ tuy cũng lắm ổ gà, nhưng không ồn ào, lại có vẻ thơ mộng, bởi hai hàng cây gòn cổ thụ ven đường, đổ những bóng dài đan nhau như những chiếc dù che bớt sức nóng của mặt trời đã ưu ái tặng cho vùng đất miền biên giới này. Nhờ vậy những buổi đạp xe đi học ở trường tỉnh, con đường dù dài hun hút, vẫn không làm bọn hắn thấy mệt nhiều, nhất là những buổi trưa hè, đạp xe theo sau “áo trắng tan trường”, dù cả hai bên đều mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng vẫn mang mang những nét tình tứ, mộng mơ. Sau này về Sài gòn đi học, con đường Duy Tân có nhiều cây dài bóng mát, cũng không nhiều bóng cây cao bằng con đường tuổi nhỏ hắn đi qua.

 

 

            Nhưng bây giờ thì khác quá, làm hắn lại buồn lòng. Con đường xưa giờ đã hoàn toàn thay đổi, người ta đã chặt hết cây để nới rộng lòng đường, nhà cửa mọc lên san sát nhưng vô cùng mất trật tự. Quán xá, tiệm cà phê hát nhạc giựt râm ran, tiệm cắt tóc, tiệm sửa xe Hon da, nhà may quần áo, nhà bán xi măng, v…v…đầy dẫy hai bên đường. Chẳng bù với ngày ấy, mỗi một gia đình là một vuông đất rộng thênh thang, sau vườn đầy ắp cây ăn trái, như nhà hắn có đến 4 cây mít, cứ đến mùa là quả nặng trĩu cành, trái nào cũng to đoàng ôm không hết vòng tay, chín lừng thơm nức mũi, chưa nói đến những “dái mít” non vừa bằng vài ngón tay đem chấm với muối ớt làm rỏ dãi những thằng bạn học dân phố chợ. Rồi thì mãng cầu, nhãn, sa-pô-chê, còn đu đủ là đồ bỏ v.v…. Thế mà hôm nay, chỉ thấy nhà và người thế chỗ, xe cộ lên xuống nườm nượp, đất đỏ văng tung tóe, nhất là xe Honda 2 bánh với tiếng nổ ầm ầm văng khói mù trời đất. Người đâu mà xây cất nhà cửa nhiều quá vẫn là câu hỏi lởn vởn lờn vờn trong đầu hắn.

 

            Xe chạy chầm chậm ngang qua khuôn viên trường tiểu học, hắn chợt mừng vì biết đã đến gần nhà, vì ngôi trường này là nơi đầu tiên thầy giáo dạy cho hắn biết cầm cây bút nắn nót khuôn chữ đầu tiên và đọc hết vần a-b-c. Đã bao nhiêu năm rồi không có gì thay đổi ngoài bảng hiệu tên trường. Hình như học trò quá đông mà phòng ốc vẫn y nguyên, lớp sơn loang lổ, sân trường vẫn nền đất hoang sơ, chỉ hai cây cổ thụ bên hông trường là lớn thêm theo năm tháng. Hắn thở dài vì một thoáng so sánh vắt ngang qua bộ nhớ. Cạnh nhà hắn phía bên kia nửa vòng trái đất, cũng chỉ một trường tiểu học, mà sao nó đồ sộ, khang trang to lớn hơn cả một trường …đại học bên này. Hắn buồn.

            Một thoáng ngỡ ngàng khi chiếc xe dừng hẳn lại trước cánh cổng sắt màu đỏ, thằng cháu đi về cùng với người  tài xế xe quen của nó, nhe răng cười và nói đã tới nhà rồi.

            Hắn bước xuống xe mà chân loạng choạng, nửa muốn bước tới, nửa lại chùn. Sự ngại ngần trước căn nhà như xa lạ đã kiềm hãm sự thôi thúc muốn bương chạy ào vào nhà để gọi mẹ, để được ôm bà vào lòng, để được sờ nắn hình hài, vóc dáng thân yêu của người mẹ già sau ngần ấy năm xa cách, và cả người em gái của hắn nữa. Ngày hắn đi, con bé còn độc thân, bây giờ đã con đàn con đống. Nhưng cánh cổng sắt sơn màu đỏ đã chận ngang sự nôn nóng trong lòng hắn. Hắn chỉ đứng xa những chấn song và cất cao tiếng gọi mẹ sau lời gọi mở cổng của thằng cháu.. 

            Người đàn bà đứng tuổi chậm chạp cầm cái chìa khoá tra vào ổ, cùng lúc ngó chăm chăm vào hắn, như muốn hỏi ai đây, thằng cháu cười cười hối thúc mở cổng lẹ lên.

            Cổng mở. Hắn muốn nhào tới ôm lấy em gái hắn, nhưng không biết tại sao hắn không thể nào thể hiện tình cảm của mình, có lằn ranh vô hình nào đó đã hiện hữu trong tình thân giữa anh em hắn. Và người em đã làm thay hắn, khi biết người  đàn ông đứng đó là anh ruột của mình đã trở về thăm nhà sau ngần ấy năm dài. Cô ta hét thật to và nắm tay hắn ù té chạy vào nhà gọi mẹ.

 

            Mẹ hắn quờ quạng cầm cây gậy lần bước đi. Hắn đứng chết trân và khóc lớn tiếng. Mẹ hắn già nua bệnh tật như vậy sao? Hắn ôm chầm lấy mẹ, nhấc bổng bà lên và xoay bà mấy vòng với nước mắt nước mũi chảy dài, nụ cười nhăn nheo của bà làm hắn càng khóc to hơn nữa. Hắn khóc nhưng mọi người chung quanh cười vui, ngay cả mẹ hắn lúc đầu khóc nhưng sau đã cười to vui vẻ.

            Ngày về nhà đầu tiên của hắn đâu khác chi triệu người bỏ xứ ra đi ngày ấy. Hắn biết mẹ hắn là người vui nhất, bà cười nói huyên thuyên, bà hỏi trăm ngàn chuyện, hắn cứ để bà tự nhiên nói, hắn trả lời ít ỏi, vì đôi tai nghễnh ngãng  nghe câu đựơc câu mất của bà. Hắn thương mẹ quá chừng chừng. Bà càng sờ soạng lên hình hài đứa con trai bao nhiêu, nỗi ân hận dày vò trong hắn lại cuồn cuộn trào dâng ngần ấy. Hắn hối tiếc, phải chi hắn về sớm hơn vài năm, thì mẹ hắn đã nhìn rõ dung nhan đứa con trai lớn của mình. Và bà đã nghe rõ được những lời yêu thương trìu mến từ cửa miệng đứa con một cách rõ ràng, thích thú.

            Hắn vui lắm! hắn thầm nói lời cảm ơn tới vợ hắn đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Cảnh mẹ và con gặp nhau, tình cảm chất chứa bao năm nó tuôn tràn như dòng suối mùa lũ, nó chảy cuồn cuộn, ào ào, liên tục làm quặn lòng thằng người luôn dùng lý trí để xét suy, hành xử mọi việc. Chỉ mới quá nửa ngày, mà mẹ con hắn đã đi lại một quãng đường của thời gian hơn ba mươi năm dài đằng đẵng.

 

            Ngày ấy, trong căn phòng hành quân của phi đoàn ở vùng 4 chiến thuật (Bình Thủy-Cần Thơ), nơi mà có những vị Tướng anh hùng, tuyên bố sẵn sàng chọn địa thế này làm căn cứ địa “tử thủ” để chống bọn Cộng sản xâm lăng, nếu thủ đô lỡ lọt vào sự kiểm soát của quân địch. Hắn nhìn thấy “bảng phi vụ” có sẵn tên phi hành đoàn, số máy bay, nhưng thiếu giờ bay và nơi làm việc, nên cứ ngồi chờ (stand-by), mà không biết rằng đã có những cấp chỉ huy cũng như vô số bạn bè đà bỏ ngũ trốn đi. Câu: không bỏ anh em, không bỏ bạn bè mà hắn vẫn thường nghe người ta ca tụng, đối với hắn, thật mỉa mai và chua xót, nhiều lúc muốn hét toáng lên và chửi đổng. Anh em không bỏ, nhưng đã không thông báo cho nhau khi rời căn cứ. Bạn bè không bỏ, nhưng đa số đã âm thầm, lặng lẽ tìm đường thoát thân cho riêng cá nhân và gia đình mình. Chỉ có hắn và một số ít đồng đội là triệt để tuân hành kỷ luật, dù pháo địch đã bắt đầu bắn vào phi trường. Mãi đến khi nghe “Thông điệp” tuyên bố đầu hàng Cộng sản của Tổng thống Dương văn Minh từ chiếc radio nhỏ trên bàn, làm bọn hắn rụng rời, chết điếng. Thế là hết!

 

            Rồi trong cơn hỗn loạn, hoang mang cùng tột, hắn đã cùng mấy đồng đội chạy bay tóc băng qua phi đạo, nơi đang bị đạn pháo của địch bắn nổ rền trời. May quá còn chiếc trực thăng nằm im lìm trong “ụ” như chờ đợi bọn hắn đến để phục vụ lần cuối. Tiếng nổ của máy và cánh quạt quay đều, bình xăng còn đầy làm hắn cảm thấy nhẹ người, vội cất cánh bay lên. Ngồi trước cần lái, người đầu tiên hắn nhớ đến là mẹ. Hắn đã muốn quay đầu chiếc trực thăng bay về với mẹ, rồi sẽ ra sao thì ra. Nhưng những đồng đội trên tàu đã ngăn không để hắn làm theo điều hắn nghĩ. Nước mắt lưng tròng, hắn đã gọi thầm tên mẹ để nói lời từ giã và điều khiển con tàu quay mũi về hướng Côn sơn theo yêu cầu của đa số.

 

            Để rồi cuối cùng, dưới cơn mưa tầm tã, những giọt mưa buồn hay là giọt nước mắt tức tưởi của những người lính, mà suốt thời trai trẻ đã gắn liền với chiếc áo lính và những cuộc hành quân chống giặc. Chiếc trực thăng của hắn đang bay, cũng cùng số phận của nhiều trực thăng đơn vị bạn, khi đáp xuống sàn tàu chiến hạm Mỹ. Hắn đâu còn đủ can đảm để tự mình “đập tàu xuống nước”, nên chỉ biết đứng nhìn con tàu đã cưu mang mạng sống của chính mình và biết bao nhiêu người trong ngần ấy năm tháng bị xô xuống biển sâu mà lòng quặn đau như bị mũi dao nhọn xoáy vào, càng nhìn càng buồn nẫu ruột. Nhưng nỗi buồn cũng bị xé nát từng mảnh nhỏ trước cảnh tượng ồn ào, hoang mang lo lắng của rất nhiều người đồng cảnh ngộ.

 

            Điều an ủi đã được yên bình cho bản thân, không làm hắn quên đi nỗi uất hận thương đau. Nhất là khi tàu cặp bến “Subic bay” của nước Phi luật Tân, Tổng thống Marcos của nước đồng minh VNCH mới tuần trước, giờ đã quay ngược 180 độ, ra lệnh …lột hết những bộ đồ trận, nón, giày của những người đang còn khoác bộ đồ Lính VNCH trên người. Hắn cởi bỏ bộ đồ bay mà hồn vía cũng bay theo, người lâng lâng muốn ngã quị. Người ta trao cho hắn chiếc áo thun trắng và quần màu xanh đậm của “US Navy” rộng thùng thình để mặc vào người, che dấu một nỗi tủi nhục cùng tột. Trong hắn lúc đó là nỗi buồn, sự giận dữ và niềm uất hận đang chen lấn nhau qua từng hơi thở. Hắn hận cho chính mình bất lực, cuối cùng cũng “trốn chạy”, bị sỉ nhục vì làm người Lính thua cuộc, dù rằng trong những năm khoác chiếc áo bay, hắn cũng đã vào sinh ra tử, lê lết trên thân tàu từ vùng hai tới vùng bốn chiến thuật, từ lúc còn ở phi trường Nha Trang, rồi Sóc Trăng sang tận Bình thủy- Cần Thơ, đã hai lần bị đạn phòng không của địch bắn rớt phải vào quân y viện. Để cuối cùng phải ra đi trong tức tưởi không lời từ giã. Hắn xa hẳn mẹ từ những ngày tháng đó.

 

            Mẹ hắn, như có mắt thần soi thấu tâm can phèo phổi của đứa con, nên hiểu được tâm trạng của hắn từ lâu đã không trở lại nhà. Trước khi đưa miếng trầu với cau vào miệng, xỉa cục thuốc, thói quen của bà cụ hằng ngày, bà đã mò mẫm cầm tay hắn, bóp bóp mấy cái rồi chậm rãi:

            -Bay đã dzề rồi, má gặp lại một lần như dzầy trước khi đi gặp ba bay là tao mãn nguyện. Tao biết, bay có khó khăn, khó xử. Nhưng thôi con à, chuyện gì cũng qua lâu quá rồi, có để mãi trong lòng cũng chẳng được gì đâu. Thiệt ra, nhà này được bình an là cũng nhờ Nó, nếu không có nó đứng ra đỡ đần, che chở, thì tao với em gái bay làm sao chịu thấu, suốt ngày chúng nó cứ kêu lên xã để “làm việc” hỏi cung tra khảo, có làm ăn gì được đâu. Rồi bắt tao đi tìm, kêu bọn bay dzề, đi đâu kêu? Bao tháng năm dài có biết gì tin tức tụi bay đâu? Sống hay chết còn không biết mà, tao với em bay cuối cùng đành chấp nhận nó để mà sống sót con à! Có Đấng Chí Tôn thương xót, sau đó bay nhắn tin dzề, còn sống ở bển. Má mừng. Từ khi thấy người ta dzề nước nhiều, tao dzà em bay cũng có mong bay dzề, nhưng bay cứ hẹn qwài mà không thấy dzề. Cũng may bay có gọi điện thăm thường xuyên, dzà gửi tiền dzề nuôi nấng gia đình đầy đủ, thôi dzậy cũng được. Cuối cùng bay cũng đã dzề, giờ má có chết cũng mãn nguyện!

 

            Buổi chiều, hắn và người em đang ngồi tâm sự trước cửa nhà, có người mở cánh cổng sắt đi vào trên tay cầm mấy lá “cờ đỏ sao vàng”. Hắn khựng lại và nhìn trân trối vào người đàn ông trông gầy gò, đen đủi, ốm yếu, được em hắn giới thiệu là “ba của mấy đứa nhỏ”.

            Người đàn ông niềm nỡ bắt tay hắn. Bàn tay xương xẩu, lạnh ngắt, tự nhiên làm hắn rùng mình.

            Bữa cơm chiều đơn sơ, đạm bạc đầu tiên trong căn nhà mới, trên nền đất cũ của bao nhiêu năm tuổi nhỏ làm hắn chạnh lòng. Hắn trệu trạo những hạt cơm cứng ngắt, có cái gì đó ngăn chận, làm những hạt cơm như muốn dừng lại nửa chừng ở cuốn thực quản. Hắn gần như mắc nghẹn, khi người đàn ông  là em rể hắn bắt đầu vào chuyện :

            -Nước nhà đã “giải phóng” lâu lắm rồi, đã hơn 3 chục năm rồi, nhưng sao mãi đến bây giờ anh Hai mới dzề?

            -Ừ thì bận lo làm ăn nuôi con vậy mà!

            -Tôi không nghĩ đó là lý do chính đáng. Chắc anh Hai lo sợ một điều gì? “Đảng và nhân dân ta” lúc nào cũng coi “Việt kiều” là những “khúc ruột xa ngàn dặm”. Ngày trước lỡ ra đi thì bây giờ hãy trở về để xây dựng quê hương, Đảng và nhân dân ta rất “khoan hồng” và kêu gọi “xóa bỏ hận thù” lâu rồi mà, chắc ở nước ngoài anh cũng đã biết?

 

            Rất bực bội, hắn ngó mẹ hắn, nhưng bà đâu có nhìn thấy nét mặt khó coi của hắn. Người em gái hắn, có lẽ “vô tâm” nên cứ ép hắn ăn, thằng cháu thì nín thinh ngó lơ chỗ khác. Tìm cớ thoái thoát, hắn ậm ờ:

            -Cũng có ý định về thăm nhà, nhưng bận làm kiếm tiền để lo cho mấy đứa nhỏ ổn định việc học hành tới nơi tới chốn..

            -Thiếu gì người có con phải lo, nhưng người ta dzẫn dzề hằng năm!

            -Ừ thì…

            Hắn bỏ lửng câu trả lời, sự uất nghẹn đang dấy lên, muốn thoát ra nhưng cứ bị chặn lại nên nó càng muốn bứt, sự bực bội dồn trên khuôn mặt. Hắn đang tự hỏi có nên nói ra những điều hắn nghĩ từ bấy lâu nay, hay nghe lời mẹ hắn mà bỏ qua tất cả, mua sự im lặng trong những ngày còn ở lại để mẹ hắn vui lòng? Thằng cháu nhìn mặt hắn, hình như đã hiểu đôi phần bèn gỡ rối:

            -Ba để cho cậu ăn cơm, đi từ sáng giờ, cậu đói lắm rồi.

            Mẹ hắn biết được tâm trạng hắn, cũng góp lời:

            -“Trời đánh tránh bữa ăn”, đứa nào muốn nói gì thì ăn xong hãy nói.

 

            Bữa cơm đầu tiên trong gia đình hơn ba mươi năm gặp lại, rồi cũng trôi qua. Hắn cố gắng nhìn kỹ người đàn ông, bây giờ là em rể hắn. Người đàn ông này mà là “kẻ thắng trận sau cuộc chiến?”

            Với vóc dáng gầy gò, ốm yếu, con người khắc khổ trông già nua trước tuổi, nhưng nét mặt nhìn kỹ cũng không mấy thay đổi với người thanh niên ngày trước hắn gặp cũng tại nhà này.

           

            Ngày đó, trong “Thánh thất”, nơi Ba hắn thường đi lễ, Ông đã gặp và động lòng trắc ẩn nên dễ dãi cho người thanh niên này đến nhà ở nhờ, vì nghe đâu hắn bị “mồ côi cha mẹ”, không nơi nương tựa nên phải vào chùa ở. Người thanh niên trông bề ngoài rất “ngoan đạo”, biết chữ nghĩa và chơi đàn tranh rất hay, được mọi người trong đạo có cảm tình. Biết ba hắn thích đờn tranh, nên đã không ngần ngại đến gần làm quen và hứa đến dạy đờn cho ông Cụ.  Mục đích anh ta đã đạt được trong mấy năm dài, khi mà nhà hắn trở thành một nơi chốn an toàn, và nơi mọi tin tức hành quân gì của “phe ta” đều được người thanh niên thâu lượm hết. Bao nhiêu bạn của hắn đã đến nhà thăm chơi, bao nhiêu người có chức sắc trong cảnh sát, trong quân đội, đều tạt ngang qua nhà hắn nói chuyện với ba hắn râm ran, vô tình khai vanh vách nay “tảo thanh” chỗ này, mai đi hành quân chỗ kia, nhất là những “căn cứ địa” của bọn cộng sản nằm vùng. Hắn không biết rõ ngày đó có bao nhiêu cuộc hành quân của “phe ta” bị thất bại? nhưng rõ ràng là hắn cảm thấy giật mình khi nhớ lại. Một “thằng phi công” về thăm nhà, ngồi nói chuyện với tên “cộng sản nằm vùng” mà không hề hay biết.

            Nhìn quanh một lượt, hắn đặt câu hỏi:               

            -Tại sao nguyên cả xóm mình, không nhà nào bị bom, bị cháy, mà chỉ có nhà mình bị? Hắn muốn chính tai nghe được câu trả lời thỏa đáng sau nhiều năm bị ấm ức mà chưa biết hỏi ai.

            Người đàn ông suy nghĩ một chút rồi trả lời:

            -Không dấu gì anh Hai, trước khi cả nước được “giải phóng”, nhà mình được chọn làm căn cứ cho “cách mạng” đặt bộ chỉ huy cơ sở, nên “bọn Nguỵ” nó chấm tọa độ pháo kích vào. Lúc đó thì mẹ và nhà em đã được “cách mạng đưa sơ tán” vào Chùa ở rồi.

            Hắn tức muốn lộn ruột lên khi phải ngồi nghe những từ ngữ “cách mạng, nhân dân, giải phóng, khoan hồng..v..v..”, mà từ lâu hắn ghét cay ghét đắng. Hắn muốn hét thật to cho vơi đi sự nghiệt ngã, trớ trêu. Thì ra chính hắn và gia đình hắn cũng đã góp phần vào việc làm “mất nước!” Dù vô tình, nhưng đã lơ là không truy xét “hồ sơ lý lịch” của đối phương. Mà làm sao xét được, khi mà trong phủ Tổng thống cũng đầy dẫy những tên “Cộng sản gộc nằm vùng”, ngay cả trong binh chủng không quân của hắn, cũng có khối binh sĩ, hạ sĩ quan, ngay cả sĩ quan mặc quân phục không quân Quốc gia mà hoạt động cho cộng sản như tên Pi-lot Nguyễn Thành Trung chẳng hạn. Hắn nghĩ vừa giận vừa thương cho những người quốc gia quá trọng tình người, quá nhân bản, quá dễ dãi để cuối cùng làm người bị thua cuộc một cách tức tưởi, thảm hại..

            Người đàn ông tiếp lời:

            -Anh Hai đã dzề tới nhà rồi, cả nhà đều đoàn tụ, cũng nhờ ơn “cách mạng”. Bao nhiêu năm nay tui lo cho gia đình này, hôm nay anh có mặt ở đây, nên ngày mai tui mời anh Hai lên thăm “cơ sở ủy ban nhân dân hành chánh xã”, dù gì tui cũng từng là “bí thư chi bộ đảng”, không lẽ tui không “động viên” được “Việt kiều” về nước “đóng góp” cho xã ta.

 

            Như thế này là quá rồi. Hắn muốn “tranh luận” với người đàn ông đang nhân danh “cách mạng” mà ra điều kể ơn rằng thì là: nếu không có cái tên Hồ tặc du nhập cái đảng cộng sản hắc ám vào nước VN, và không có những tên nằm vùng, những tên cộng sản miền Bắc xâm lấn miền Nam, thì làm gì có chiến tranh giặc giã, để hắn phải làm người Lính bảo vệ miền Nam với hai lần suýt chết, làm gì có cảnh ly tan, cửa nhà hắn đâu bị đạn pháo cày tan nát, mẹ và em gái hắn đâu lâm vào cảnh bị chèn ép để anh ta nhảy ra làm “ân nhân cứu mạng” rồi bây giờ đi kể công? Nhưng hắn nhìn mẹ hắn, nhớ lời bà vừa dặn hồi xế trưa, lại nhớ thêm lời vợ căn dặn trước khi lên máy bay:

            -Về nhà, dượng có nói gì thì cũng cố mà nhịn, mục đích là về thăm mẹ. Anh không có ưu thế nào để đi tranh cãi với một tên cộng sản còn gắn chặt hình ảnh đôi dép râu, cái nón tai bèo. Dượng ấy bị đầu độc quá lâu rồi, từ khi sống chui sống nhủi trong hóc hiểm trên núi Bà Đen chờ đêm đêm lẻn đi “giựt cầu, phá đường”. Nơi mà trên đầu suốt ngày trực thăng bay lên xuống xành xạch, dưới đất là lính đi lùng ban đêm. Mãi  đến khi vô chùa Cao Đài làm tên “hiền huynh tu sĩ giả” mới dễ thở(?). Dưới mắt dượng ấy, anh cũng vẫn là một “tên giặc lái, tay sai đế quốc Mỹ”, và vẫn là “người thua trận nên bỏ chạy”. Dù anh có hét toáng lên rằng anh đi chiến đấu để bảo vệ miền Nam, chống bọn cộng sản xâm lăng từ miền Bắc, thì hãy coi chừng, chuốc họa vào thân. Nhớ mục đích là về thăm mẹ, không phải lúc để làm công tác đấu tranh! Bọn chúng thù dai và tiểu nhân lắm, chuyên xài luật rừng, chúng mà kêu lên xã để “làm việc” là không có ngày về, nếu không đưa nhiều tiền ra để “đấm mõm” bọn chúng, một hành động “làm tiền” rất có hệ thống, lớp lang với đầy đủ vũ khí trong tay. Hãy nhớ, mỗi người một hoàn cảnh, hoàn cảnh nhà mình nó trớ trêu, phức tạp, miễn mình đừng làm gì trái với lương tâm, đừng đứng dưới lá cờ máu của họ mà tuyên bố vung vít như tên tướng hèn râu kẽm của binh chủng anh, là không ai phiền trách gì đâu…

 

            Hắn thở dài, tập vài hơi thở theo bài tập khí công để điều hòa lại nhịp đập con tim. Có ở trong cảnh ngộ mới thấm được nỗi đau, sự bực bội. Làm sao hắn có thể nói chuyện bình thường với người “cộng sản giáo điều” này, dù trong gia đình, có vị thứ anh vợ-em rể, nhưng hai ý thức hệ vẫn là hai lằn ranh cách biệt, hắn ghét cay ghét đắng lá cờ máu kia, lý do chính trong nhiều năm nhất định không về thăm mẹ, vậy mà phải nhìn ngồi người em rể vác về để sờ sờ trước mắt.

 

             Hắn tự hỏi: chẳng lẽ mình cũng là một người hèn? Không! ngày đó hắn “anh hùng” lắm chứ. Có những cuộc hành quân tiếp tế, chứng kiến trực thăng bạn bị cháy ngay trong vùng trời trước mặt, nhưng hắn vẫn bay qua dàn phòng không của địch để lao vào đạp những ống chứa nước bằng đạn pháo binh cho tiền đồn mà binh sĩ gần như sắp chết khát, hoàn thành phi vụ. Có những chuyến bốc quân, địch nã pháo gần ngay bãi đáp, nhưng hắn vẫn đưa con tàu xành xạch sà xuống để lính nhảy lên. Nhiều chuyến tản thương, mà bộ đồ bay dính toàn là máu, túi áo bay lúc nhúc những “dòi bò” vì không kịp kéo kín “phẹc-mơ-tuya”. Những ngày ở xứ người, hắn cũng đã tích cực đóng góp, tham gia vào những cuộc biểu tình, mít-tinh để chuyển lửa về trong nước, ủng hộ những người đấu tranh dân chủ v..v..

            Nhưng bây giờ, ngồi đây, ngồi để nhìn một người đàn ông gầy gò, đen đủi, già nua “lên lớp” mà không  thể mở lời đối đáp được sao? Hắn bèn gạt qua một bên lời mẹ và vợ dặn, phản ứng lại thật mạnh dạn sau khi nhờ thằng cháu nấu ấm trà nóng với mấy cái tách để ngồi …đối ẩm tâm sự.

            Hắn bắt đầu với giọng nói chậm mà rõ:  

            -Bây giờ tôi không nói chuyện với anh (hắn lịch sự gọi người đàn ông) về cái đảng cộng sản, về nhân dân, về cách mạng gì ráo, ba chuyện đó đối với tôi chỉ là sự tuyên truyền láo khoét. Chỉ có ngần ấy chữ mấy anh cứ nói tới nói lui như con vẹt. Tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản, và hãy thành thật trả lời: bao nhiêu năm nay nhà này làm sao có tiền để sinh sống, xây cất lại nhà cửa và con anh có thể lên Sài gòn học đại học?

            -Thì do anh chị ở bên ngoài gửi về giúp.

            -A ha! Vậy tiền đó là tiền Mỹ hay tiền Hồ?

            Người đàn ông khựng lại, hắn được thể nói tiếp những điều rất thực tế, dễ hiểu may ra giúp người em rể, người cộng sản quanh năm suốt tháng lẩn quẩn lần quần trong cái xã xa thành phố, có thể “tỉnh ngộ”. Hắn đang làm công tác “tư tuởng” ngược?  Có lẽ từ trước đến giờ chưa ai nói, không dám nói hoặc không thèm nói cho anh ta nghe, cứ nhịn mãi như mẹ hắn và cả em gái hắn nên anh ta không nhìn rõ được thực hư?.

            -Tôi nói cho anh nghe, bao nhiêu năm anh đi “làm cách mạng”, gây tang tóc điêu linh cho bao nhiêu người, cuối cùng anh được cái gì đâu, chỉ tôi xem? Chung quanh làng xóm của anh được cái gì, hay cũng còn nghèo xơ, nghèo xác? Lúc nào mở miệng ra cũng cách mạng, cũng nhân dân, mà không đủ sức nuôi nổi một gia đình. Anh còn mơ ngủ, hay không chịu sáng mắt ra. Mấy thằng cộng sản chóp bu, lãnh đạo cái đảng của anh, chúng nó giàu nứt đố đổ vách do ăn cướp của nhân dân, ăn hối lộ không nương tay, con chúng nó vung tiền ăn chơi như rác. Còn anh, suốt ngày cứ khư khư cách mạng, nhân dân, ôm ba cái lá cờ đỏ, lá cờ hại dân hại nước, tôi ghét cay ghét đắng. Anh khư khư giữ nó có thể thế cơm no bụng được không? Hay no bụng nhờ cơm áo gạo tiền từ xứ Mỹ?

            Người đàn ông rướn mặt lên ngó chăm bẳm vào hắn, sự ngạc nhiên hiện rõ lên nét mặt. Được thể đứa cháu tiếp:

            -Cậu nói đúng đó Ba à, bao nhiêu lâu nay con muốn nói cho ba hiểu ra, nhưng con sợ ba buồn. Người ta làm “cách mạng” giàu có, còn ba thì cứ ôm cứng bác Hồ, cái đảng cộng sản của ba, sợ bị phê bình là hủ hóa, sợ kiểm điểm gì đó, rốt cuộc nhà mình nghèo rớt mồng tơi, may mà con xuống thành phố học hành rồi làm việc cho công ty nước ngoài, nên cũng đỡ khổ. Nếu không có cậu mợ giúp đỡ thì nhà mình làm sao được như dzầy..

            -Sao con ăn nói “phản động” dzậy?

            -Ba với mấy đồng chí của ba cứ hay dùng từ phản động để áp đặt lên “tư duy” của người khác! Đứa cháu tiếp: Con và lũ bạn con từ lúc hiểu biết sự đời, tụi nó đâu có thèm để ý đến “Bác, đảng, cách mạng” gì đâu, miễn sao khi ra khỏi trường đại học, tìm được một chỗ làm tốt, thường là các công ty nước ngoài, sống thoải mái là được. Đứa nào mà vô đảng, chẳng qua chúng nó là con ông cháu cha, học dốt lại muốn làm ông to, bà lớn. Lớp nữa muốn tiến thân bằng con đường tắt, đâu có đứa nào còn tin đảng nữa, nhưng chúng không ngu gì nói thật, sợ công an tới nhà còng tay dẫn đi, chụp cho đủ tội lỗi nào là âm mưu chống đối đảng, phá hoại cách mạng, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, mặc dù không người nào có một cây đinh ở trong tay, rõ ràng ai cũng biết cái “đảng của ba” đã dùng “bạo lực cách mạng” để đàn áp người ta mà!

            -Nhưng mà…

            -Không nhưng nhị gì cả! hắn bồi thêm: nước Việt nam bây giờ đâu còn “xã hội chủ nghĩa” nữa, tụi nó theo tư bản hết rồi, mà bày đặt gọi “kinh tế thị trường” cho khác chế độ trước. Chúng đem “Bác Hồ” ra làm bình phong, dùng công an trị để doạ nạt, bắt bớ, bỏ tù những ai không a-dua theo bọn chúng. Ngày mai, anh thử lên xã ghi tên nghỉ mấy ngày, tui sẽ đưa anh và cả gia đình lên Sài gòn, để anh nhìn thấy bọn cán bộ chóp bu cái đảng của anh sống như thế nào, hay là nhờ có “cách mạng, nhân dân” mà tên nào cũng ở nhà lầu, đi xe hơi sang trọng, sống như ông hoàng bà chúa, con cái thì cho sang Mỹ, sang Anh du học, mua nhà to cửa lớn sống đời vương giả. Còn anh và một số đảng viên quèn cứ đem cái đảng ra dọa, ai nói đụng tới là bắt bớ giam cầm, làm khó dễ bà con…

 

            Hắn nói xong một hơi, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhưng cũng giật mình thót bụng. Bao nhiêu năm ở xứ sở tự do, muốn nói gì thì nói, nhiều khi có kẻ khơi khơi kêu tên “tổng thống” ra xài xể chơi, nhưng cũng chẳng bị gì. Có điều ở đó hắn nói, mà người nghe cũng đồng cảnh với hắn. Ở đây, trước mặt hắn là người cộng sản chính cống, dù chỉ là một tên cộng sản tép riu. Nhưng sự “bằng mặt không bằng lòng” sẽ khiến hắn bị công an còng tay bỏ vào tù, tẩn cho một trận, hoặc bắt “làm việc” liên miên để khủng bố tinh thần là điều có thể xảy ra. Hắn lại càng không muốn làm “người hùng nổi tiếng”, khiến vợ con hắn ở bên kia phải chạy đôn chạy đáo để kêu cứu, nhờ sự giúp đỡ, để cứu hắn ra. Mới nghĩ đến điều đó, hắn đã ớn xương sống. Thôi thì đàng nào hắn cũng đã có mục đích “về thăm mẹ”, không thể làm phiền đến gia đình, vợ con và những người đang đấu tranh chống cộng. Cả nước chín chục triệu người còn “ớn” mấy triệu đảng viên (???), hơn ba triệu người đi tị nạn, cũng chưa thấy làm gì để dẹp hẳn được lá cờ đỏ kia, liệu một mình hắn, với vài câu nói bình thường, đâu đáng để “tàn đời trong ngõ hẹp?”. Nếu có bị chê là  hèn, cũng đành!.

            Thế là hắn đã đưa mẹ và em gái lên thành phố ở cho đến khi hắn về lại Mỹ, dứt lòng rời xa, từ giã luôn căn nhà có cánh cổng sắt sơn màu đỏ, dù đó là nơi chôn nhau cắt rốn và rất nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ.

Lê thị Hoài Niệm

 

 

 

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

 


BÊN ĐỜI

Lê thị Hoài Niệm.

 

Vượt cả một đại dương mênh mông để trở về nhà. Về nhà! Nghe sao thương yêu trong từng kỷ niệm. Đi đâu rồi cũng phải trở về nhà, dù rằng cuộc ra đi với muôn ngàn khó khăn gian khổ, hay điều kiện tốt đẹp như một cuộc du lịch xa, ở hotel hạng năm bảy sao, tới những tòa biệt thự sang trọng, nhưng vẫn không phải của mình, vẫn mong trở về nhà. “No place like home”! người phương Tây cũng đã có cùng quan điểm đó.

Nhà nào bằng nơi chốn mình được sinh ra và lớn lên với muôn vàn kỷ niệm. Đi và về, cái vòng lẩn quẩn quấn quanh trong cuộc sống. Có những ngườì rất muốn quay về nhưng đã không còn cơ hội, không còn những thân tình để tìm lại chút thương yêu, và căn nhà xưa đã không phải của mình nữa rồi.

 

Và tôi đã trở về, về để thăm lại mẹ cha với thân xác đã nằm yên trong lòng đất lạnh, khi những đứa con đang ở xa ngút ngàn, cũng vì hoàn cảnh của thời thế. Thương cho ba má tôi, suốt cả một đời lo lắng, nuôi nấng, dạy dỗ cả một đàn con, khi đám con trưởng thành, lại cưu mang cơm nước cả một bầy bè bạn của con, những người trai mặc quần áo lính từ quân trường Lam sơn- Dục Mỹ. Hy sinh tất cả cho con, nhưng những ngày cuối đời, đến cận kề bờ tử sinh, ngay khi trút hơi thở cuối cùng, bên cạnh chẳng có đủ mặt các con để làm ấm lòng trước giờ tử biệt. Buồn.

 

Buổi chiều, sau khi thắp nhang cúng cơm cho Ba tôi sau 49 ngày người mất, người mất vào chiều mồng hai tết, sau khi được ăn những món ngon nhất ngày tết do người em họ nấu cúng đầu năm. Ba tôi đã ngủ và ngủ luôn giấc ngàn thu không bao giờ thức dậy nữa. Khi những nén nhang chưa tàn, và những người thân trong gia đình còn tụ tập bên bàn nói chuyện về người đã mất, thì có tiếng gõ cửa. Khách đến.

Người đàn ông buớc vào không có chút gì ngỡ ngàng, như có gì quen thuộc và biết trước mọi việc đang xảy ra, ông xin đưọc thắp nén nhang để cầu nguyện cho người đã khuất sớm được siêu thoát.

Chị tôi chào đón ông và ngỏ lời cảm ơn đã vì người quá cố mà đến. Không phải vì tò mò, nhưng lịch sự tối thiểu cũng phải biết tên để cảm ơn. Bỗng ông quay lại nhìn tôi cười cười và hỏi trổng: quên rồi sao?

 

Tôi khựng người, ngó kỹ lại, giật mình- quên! Làm sao quên được. Người đó sao? Đã hơn bốn mươi năm rồi, từ ngày đất nước tan đàn xẻ nghé, tôi gặp người lần cuối cùng trên bước đường di tản, người đi theo đoàn xe GMC của trung tâm huấn luyện Lam Sơn xuôi nam trên quốc lộ một. Còn tôi, trên chiếc Zamaha 2 bánh chạy về trang trại của gia đình trong Suối Dầu để trốn tránh những người tù vừa thoát khỏi những trại tù ở Nha trang. Đoạn đường chật ních người, kẹt cứng không thể di chuyển nhanh được. Những chiếc xe đủ loại cứ nhích nhích, nhiều lúc đứng yên, nên đoàn người hoảng loạn, nhất là những người Lính, cứ nhào xuống nhìn về trước, hỏi thăm điều gì đó, rồi lại leo lên xe, người đi bộ thì né xuống lòng đường mà lầm lũi bước, xe hai bánh thì lách luồn tìm khoảng trống mà lách qua, vậy mà người Lính đã nhận ra tôi, người phóng xuống và níu lấy xe tôi, ôm chầm phía sau lưng tôi trong vội vã khiến chiếc xe gần như muốn ngã.

 

Những ngày tang thương, đau khổ của cả thành phố Nhatrang, ngày tôi ngóng trông tiếng xe nổ dòn trước sân nhà để nhìn người Lính xuất hiện mà hỏi xem …tình hình diễn biến ra sao? Anh có ý định gì không?. Thành phố rất chộn rộn, tôi không còn đứng trên bục giảng mà trở thành người “tiếp cư” tại ngôi trường tôi đang dạy học, trường học trở thành “trung tâm tiếp cư’ của thành phố, những em học sinh nhỏ không xuất hiện trong sân trường, trong lớp học, thay vào đó là những nạn nhân chạy loạn. Họ từ những tỉnh miền cao nguyên theo đoàn quân di tản đổ về, từ miền trung chạy về đây. Những người dân với nét mặt hoang mang, lo lắng trong những bộ quần áo nhếch nhác, lê thê lếch thếch mệt mỏi đến tận cùng. 

Cứ mỗi chiều là có từng đoàn xe đổ xuống, nào là xe chở hàng, xe jeep nhà binh, đủ mọi hạng người, có người lạc mất gia đình, có người mất cả con thơ, …v..v nhìn thấy cảnh xơ xác của họ mà vô cùng đau lòng, thương cảm..

Tin chìến sự cũng ùa tới khi những người di tản kể chuyện bị bắn giết trên đường đi, họ đã vượt qua bao gian nan khổ ải để tìm về vùng đất bình yên, nhưng không biết có được bình yên hay phải đi tiếp.

Và sự hoảng loạn đã bủa vây cuộc sống của các Thầy Cô giáo trong trường. Có vài người đã bỏ trường ra đi vào nam theo chuyến bay air Việt Nam vì họ có điều kiện. Cứ mỗi buổi đến trường, sau khi làm công tác trợ giúp, các Thầy Cô lại tụm vào nhau và bàn chuyện nên đi hay ở? Vì có những “tin đồn”, nếu là các cô sẽ bị bắt làm “hộ lý”, và ai để móng tay sẽ  bị… rút móng. Sự sợ hãi tăng theo số người tản cư tràn vào thành phố.

 

Và rồi một số đông đã ra đi, những người vừa mới đến cũng dọn gói đi tiếp vào nam theo nhiều phuơng tiện, như xe hàng, ghe thuyền là chủ yếu. Tôi đã không còn dám đến trường vào những ngày cuối tháng ba năm đó vì, trên đường đi rất bất ổn, một số lính ở miền ngoài được tàu hải quân đưa vào bến cảng cầu đá và lên bờ tha hồ đi…phá phách thành phố, những người phái nữ ít dám ra đường nếu không có người nhà đi kèm theo.

Lại nữa, tin từ các đài truyền thanh BBC và đài VOA, theo lời ba tôi nghe hằng ngày, đã loan tin phe địch…thắng trận liên tiếp, và phe quốc gìa đang …bỏ ngỏ nhiều tỉnh miền Tây Nguyên và phía bắc miền trung. Quân “mặt trận” tiến thẳng như vào chỗ không người.

Ngày gần cuối tháng 3 năm ấy, nhà tôi bỗng thêm nhiều bà con từ các tỉnh vùng ngoài cũng tản cư đến trú ngụ. nào là gia đình mấy dì ruột, anh chị con cậu, vài ngưòi bà con, vị chi hơn tiểu đội, nên đã sợ càng thêm lo lắng.…

Những ngày còn tin tức trên TV địa phương, cả nhà ngồi quanh trước TV, nhìn cảnh từng đoàn người đi hàng dọc trên lề đường quốc lộ tiến vào nam, và xe cộ thì chen chúc nhau, cứ cà nhích cà nhích, trên ấy chở hàng hà sa số người đu bám, thấy lo sợ lắm.

 

Vậy mà tôi cũng đã thành một trong số những người đó, nhưng tôi chỉ đi một đoạn ngắn có đích đến, và bất ngờ gặp người Lính trong hoàn cảnh nghiệt ngã này, nên chỉ biết cầm tay, khóc chào từ giã, biết nói gì đây khi người đang làm nhiệm vụ người Lính chưa mất đơn vị, và phải di chuyển theo đơn vị dù chưa biết tương lai về đâu. Và những ngày qua, đoạn đường Dục Mỹ-Nha trang quá đông người di tản lại bất ổn, làm sao người có thể về thăm tôi lần cuối khi đơn vị đang cắm trại…

 

Và chúng tôi xa nhau từ đó, đến khi tôi vượt biển vẫn không có tin tức của nhau, mãi đến hôm nay.

                                                                        ****

 

Ngồi nhắc lại kỷ niệm xưa, từ lúc chọn nhiệm sở là trường Phong ấp- Ninh Hòa sau khi tốt nghiệp trường Sư Phạm, tôi bỗng dưng thành một “tay chơi vũ cầu” thật xuất sắc. Thường thường mỗi buổi sáng, chúng tôi đến trường sớm hơn thường lệ, chỉ thỉnh thoảng xe đò bị hư gì đó mới đến trễ, tôi và Thầy M, dạy cùng trường, nguyên là một vận động viên thể thao của vùng hai duyên hải, Thầy rất giỏi các môn thể dục thể thao, thế là Thầy làm “huấn luyện viên” môn vũ cầu cho tôi, tôi chỉ có việc cột hai vạt áo dài lên, và với…chân đất tha hồ chạy đỡ banh, mặc cho mồ hôi đẫm ướt áo, tính sau. Có khi đến giờ học trò làm bài tập, chúng tôi cũng chạy được ngoài sân.

 

Ông Trời chơi khăm, buổi sáng đó, trong khi tôi đang cột vạt áo và đang chạy ướt đẫm mồ hôi, thì có mấy chiếc xe Honda chạy vào sân trường, và mang theo xe là những người Lính. Họ đến từ quân trường Lam sơn-Dục Mỹ và tìm cô giáo T, họ “giới thiệu” là bạn của anh trai tôi. Trời đất quỉ thần ơi! Cái cô giáo đang vắt ngang vạt áo dài, quần thì ống xăn ống xổ, người thì ướt đẫm mồ hôi mà đi tiếp khách sao trời? Nhưng đành phó mặc, ra sao thì ra.

Vậy mà người Lính đó đã để ý đến cô giáo quái gỡ, thích chơi thể thao kia mới chết chứ. Để rồi sau đó, hình như đoạn đường Dục Mỹ- Ninh Hòa được thâu ngắn hay sao đó, mà người cứ xuất hiện ở trường tôi hoài, đến nỗi thầy hiệu trưởng Ng. cứ đùa vui “trường mình có mướn …lính canh!”

 

Cũng bởi tôi có máu văn nghệ trong người. Từ năm học đệ thất, má tôi đã cho tôi học đờn măng-đô-lin, rồi sau đó lại học guitar, nhưng cứ bị ..thầy gõ tay hoài, nên tôi đã bỏ ngang xương, dù mới biết có chút chút. Nhưng máu văn nghệ vẫn còn tiềm ẩn, khó mà dứt bỏ, nên chi khi người Lính biểu diễn ngón đàn thật lả lướt, với giọng hát thật truyền cảm, truyền qua ánh mắt biết cười, chỉ có …nữ tu may ra không xao xuyến, chứ đứa con gái mới lớn bình thường mà mê nhạc như tôi bị …hút là chuyện đương nhiên..

 

Tôi có dịp đi Dục Mỹ nhiều lần sau đó, con đường bỗng nên thơ, trữ tình chi lạ. Con “suối mơ” có căn nhà gỗ của những người Lính thuê để về trú ẩn sau những giờ phút “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” đã có ban nhạc bỏ túi, với tiếng đàn điêu luyện của những người Lính và tiếng hát của chính họ, của bạn Lính như chúng tôi với những bản nhạc ca tụng người Lính, hòa lẫn vào nhau nghe thật nức lòng.

 

Với đám đông các người sĩ quan huấn luyện viên quân trường, có cả anh tôi, tôi đã là “hành khách” trên chiếc xe Honda của người Lính, nên dù nắng có gắt, gió có thổi hắt vào người từ những đám bụi của cơn trốt buổi xế trưa vừa cuốn qua, tôi vẫn không cảm thấy phiền hà, khó chịu vì tình cảm dành cho người Lính đã vượt qua những gió cát của đoạn đường.


 

Má tôi thương bạn của con thật đó, nhưng để cho con gái bà về “nâng khăn sửa túi” cho mấy chàng lãng tử, coi bộ bà không vừa ý mấy. Bà vẫn dạy rằng “con mà lấy nó, cái thằng ăn chơi, đờn địch ca hát kia, mai mốt có đường…bốc mắm mà ăn con ạ!”…

 

Từ khi đổi về lại Nha trang, con đường Ninh hòa - Dục Mỹ đã không còn thường xuyên đón bước chân tôi, hoạ hoằn lắm mới cùng các bạn tôi đổ đường về thăm lại, khi phải làm “hướng dẫn viên” cho một cô bạn nào đó đi thăm chàng “Sĩ quan huấn luyện” mới quen. Con đường có xa hun hút nhưng tình cảm của tôi dành cho người Lính năm nào vẫn níu chặt bên đời, dù má tôi có ý cản ngăn, mãi đến khi ….

                                                                        *****

 

Bây giờ người xuất hiện nơi đây, vẫn ánh mắt biết cười dù thời gian và hoàn cảnh sống trong nước có làm người già đi…nhiều, nhưng không đến nỗi. Đã có một bức màn vô hình ngăn cản, nên chúng tôi chỉ nhìn nhau và hỏi chuyện bâng quơ về đời sống của mỗi người sau ngần ấy năm dài không gặp lại, và lý do người đến hôm nay, và rồi có những lời tâm tình cảm động.

-Đã có lần anh trở lại Dục Mỹ, muốn về thăm lại căn nhà trọ năm xưa, quân trường thì đã xóa sổ rồi, muốn nhìn con suối nhỏ chảy róc rách sau hiên nhà…, nơi có quá nhiều kỷ niệm của cả một đám bạn, và em.., nhưng tất cả đã không còn nữa. Anh về qua đó thấy buồn đến nẫu người ra. Không còn một người quen, không có căn nhà nhỏ, dĩ nhiên không có cả tiếng cười, tiếng đàn, giọng hát. Bây giờ tất cả đều xa lạ, có những căn nhà lầu chắn ngang tầm mắt, dòng suối thì xác xơ, dơ bẩn, cuộc sống ồn ào, người người hối hả….Lần đó anh đã ngồi ngang cầu mà khóc, thiên hạ nhìn chắc nghĩ anh là “ông già điên”. Anh giở bức hình mình chụp với nhau năm xưa, bức hình anh mang theo mãi bên cạnh cuộc đời anh, anh ngắm nhìn mãi và cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ, nhưng biết là chẳng bao giờ mình có lại được những ngày vui ấy nữa….

 

Anh ngồi kể chuyện đời anh sau những tháng ngày nghiệt ngã, những ngày “tù cải tạo” vô cùng cực khổ, cái đói thường xuyên đến nỗi có hôm phải ăn lá giang để đỡ đói, lao động cực khổ trăm bề đến hơn bốn năm mới được thả về và sau đó có người con gái trong xóm đã chịu về làm vợ anh. Nghe anh kể chuyện khiến chị em tôi cứ mãi sụt sùi. Bỗng chị tôi phán một câu làm chúng tôi chưng hửng: “À cậu Ph. đây phải không? May quá, hồi xưa má chị hay la: con T. mà lấy nó chỉ có nước bốc mắm mà ăn! T à, em …may lắm, nên không phải ăn mắm đều đều!” khiến cả nhà cười vang, chắc Ba tôi cũng đang nhìn xuống chúng tôi ngạc nhiên tự hỏi: sao chúng nó vừa khóc vừa cười?

Người Lính năm xưa chào từ giã ra về, không quên cho tôi xem lại bức hình năm cũ. Dù tôi có ngỏ ý xin làm kỷ niệm, nhưng người Lính đã ngần ngừ và cuối cùng từ chối thẳng: anh đã giữ nó trong ngần ấy năm dài, hãy để anh giữ mãi bên đời, đến khi xuôi tay nhắm mắt. Em còn có một gia đình êm ấm, hãy giữ lấy gia đình của mình, đừng nghĩ gì đến bức hình cũ năm xưa…..

Lê thị Hoài Niệm.

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

 

KHÔNG THỂ NGỜ…

Lê thị Hoài Niệm.

Nhờ mỗi lần nói chuyện với Thảo, tôi đều khuyên em hãy đi sang Mỹ một chuyến, trong khi em còn có nhiều điều kiện để đi, nếu chần chừ mai này có chuyện không hay, muốn cũng không được nữa, tất cả sẽ muộn màng và chỉ còn sự hối hận trong tâm. Và em đã thực hiện được lời tôi khuyên.

 

Chuyến bay dài gần hai mươi tiếng đồng hồ, dài thật dài cho một người mới lần đầu đi xa, vượt qua nửa vòng trái đất. Chuyến bay đến thành phố vào lúc nửa đêm. Không khó khăn gì mấy vì hành lý không nhiều nên qua hải quan rất dễ dàng. Lại nữa, ở đây may mắn có một nhân viên nói tiếng Việt, nên ông chỉ dẫn thật tận tình, niềm nỡ chứ không có kiểu hách dịch như quan ta ở nhà. Đó là nhận xét đầu tiên của Thảo, người từ Việt nam vừa đặt chân đến xứ Mỹ.

 

Thảo rất mừng rỡ khi thấy chúng tôi đứng đón ở cổng ra. Vậy là không bị lạc rồi hả chị? Thảo vui vẻ huyên thuyên hỏi chuyện dù cô nàng trước giờ thuộc loại ít nói, kiệm hơi.

 

Mấy ngày đầu ở với gia đình chúng tôi rất vui, Thảo nói thế, vì lần đầu tiên đến xứ này cái gì cũng lạ dưới mắt Thảo, khi chúng tôi chở cô đi lòng vòng từ phố xá, xem quang cảnh và đến các khu chợ, quán ăn Việt nam. Thảo trầm trồ không dứt lời, nhất là cảnh xe cộ chạy trên đường, sao mà thứ tự luật lệ an toàn quá thế. Nhất là thành phố của chúng tôi ở, nơi có rất nhiều xa lộ “xếp chồng lên nhau cao chót vót”, có nhiều cầu cao mà không hề có dòng sông hay lạch nước, chả bù với VN nơi Thảo mới từ giã ra đi, chỗ nào cũng ngập nước nếu có cơn mưa, dù không có cầu cống gì cả..

 

Nhưng rồi chúng tôi cũng phải trực tiếp nói vào chuyện chính, vì tôi đã mua sẵn vé máy bay cho Thảo đi tìm thăm một người ở thủ đô nước Mỹ, có lẽ lần đầu trong đời và cũng là lần cuối…

 

Vẫn là lời của Thảo kể về chuyện ngày xưa, sau khi nghe theo lời kể sau này của ba em:

Năm đó mẹ em còn trẻ lắm, lại là cô gái đẹp nhất làng, nên nhiều người trong làng xóm cũng muốn dạm hỏi má em về làm dâu nhà họ. Nhiều người còn mai mối cho má em những người giàu có ở làng bên, nhưng má em chưa chịu ưng thuận người nào thì gặp ba em.

Lúc toán lính qua làng truy đuổi Việt minh. thì cuộc sống của người làng quê khốn khổ lắm, buổi giao thời nên phe việt minh và phe quốc gia cứ sống chen lẫn nhau làm khổ người dân hoài. Ba em chỉ huy một toán lính quốc gia và về đóng quân ở làng em, và tình cờ gặp má em lúc bà trên đường đi chợ về. Năm ba câu hỏi xã giao và họ làm quen từ đó.

Một mối tình thật đẹp đã nở hoa giữa một cô gái quê và một người hùng lính trận qua làng.

 

Đúng là đời nở hoa với hai người họ, chị ạ. Em “tượng hình” trong lúc tranh tối tranh sáng đó, nhưng ba má em chưa kịp có một đám cưới hẳn hoi thì ba em phải chuyển quân gấp vào trong Nam theo đơn vị. Lúc này má em không thể bỏ gia đình, bỏ làng theo ba em vì phong tục, lễ giáo không cho phép. Còn  ba thì không biết má đã mang thai em trong bụng, mà thờì gian ba đi không thư từ gì về cả. Ông bà ngoại em thật sự rất buồn vì cô con gái “không chồng mà chửa” tại một làng quê, là một nỗi nhục cho gia đình. May mắn có người trai làng bên, vốn dĩ ông đã thưong má em từ lâu nhưng không dám ngỏ lời, vì ông sợ bị gia đình ông bà em từ chối vì cảnh nhà khó khăn của ông. Khi ông biết chuyện của má em trong tình cảnh như vậy, đã nhờ người mai mối đến hỏi má em. Dù biết má em đã có đứa con với người đàn ông khác, nhưng ông sẵn sàng chấp nhận và lo lắng cho má em suốt đời.

Vậy là mấy chục năm qua, người Ba mà em yêu kính chỉ là người ba nuôi, nhưng cứ như là ba ruột của em. Ông thương em còn hơn những đứa em của em được má sinh ra sau này. Và đến khi má em mất, bà cũng “giấu kín” không nói gì đến ba ruột của em cho em hay.

 

Mãi đến gần đây, khi ba nuôi em bịnh nặng, ông mới kêu em đến gần và kể hết chuyện cho em nghe. Chị biết không? lúc đó em giận má em mà khóc không thành tiếng, và tình thương dành cho Ba nuôi em còn choáng hết hồn em. em thương ông bao năm qua nuôi con của ..người ta, mà không một lời trách móc hay than phiền, và ông còn cho biết ba em là ai và hiện đang ở đâu. Trời! chị biết không? người đàn ông mà thỉnh thoảng về làng em chơi, thường đến thăm gia đình em sau này, được ba má em giới thiệu là Cậu Hai, chính là Ba ruột của em mà em đâu nào có biết, em cũng kêu ông là Cậu, dù đôi lúc em thắc mắc, cũng cùng là cậu, sao ông chỉ lo lắng cho mình em đủ thứ, còn những đứa em của em thì ông chẳng để ý gì nhiều.

 

Có một lần Cậu Hai từ Mỹ về VN dự đám cưới của một người bà con ở tỉnh lân cận, Cậu có mời gia đình em vào tham dự. Nhưng em không đi vì nghĩ mình không quen biết họ nhiều, chỉ chồng và con của em đi, ấy vậy mà hôm đó đứa con trai của em được Cậu chăm sóc tận tình, Cậu còn tặng thằng nhỏ nhiều món quà rất có giá trị. Thằng bé cũng ngạc nhiên lắm, nó về hỏi em vậy chứ Cậu là gì của gia đình mình mà Cậu chăm chút con kỹ quá vậy?.”

 

Và Thảo đã đi sang Mỹ, mục đích là về thủ đô Hoa thịnh Đốn để thăm người Cha ruột của mình trong tình trạng phân vân không biết khi gặp gỡ sẽ có phản ứng như thế nào?

Cũng là lời Thảo từ từ kể khi trở lại nhà tôi để về lại nhà: “Em được Cậu ra tận phi trường đón tiếp và đưa về nhà Chị ạ. Cậu trông còn khoẻ mạnh lắm, đi đứng thoải mái dù tuổi đã ngoài 90. Cậu còn minh mẫn lắm, cả bà cũng còn khỏe, và họ tiếp đón em rất tận tình. Cậu đưa em đi thăm những cảnh quan đẹp đẽ của thủ đô nước Mỹ với người con trai lớn lái xe, Cậu em ấy cũng rất quan tâm đến em và mua rất nhiều quà tặng cho em chị ạ. Riêng ông Cậu Hai rất thích ngồi kể chuyện đời xưa từ những ngày ông qua làng em, ông kể chuyện ngày quen biết má em.

  

Thú thật lúc em nghe đến đâu là em cảm thấy khó chịu tới đó. Em giận má em nữa, tại sao ngày còn hiện tiền chưa bao giờ bà cho em biết chuyện này, rồi em giận cậu tại sao bỏ má em đi mà không trở về tìm bà ấy?. Em hỏi cậu điều đó, tưởng cậu không thể trả lời cho em rõ ràng, nhưng thú thật em nghe xong cũng chả hiểu được tâm trạng của mình, không lẽ cậu đặt điều để trốn tránh tội lỗi sao? nhưng nhìn ông cụ ngoài 90, đã từng là một sĩ quan cấp Tá của nước mình ngày trước, từng chỉ huy một đơn vị lính tác chiến, ngồi nói chuyện từ tốn, em nghĩ là cậu không thể nào đặt chuyện để bào chữa hành động…phản bội của mình ngày đó. Cậu kể chuyện xong mới hỏi em một câu mà đến bây giờ em cứ phân vân, và có lúc suy nghĩ hình như mình quá cứng rắn? em làm đúng hay sai khi đã không tha thứ cho cậu?

 

 Tôi cướp lời Thảo khi cô đang trầm tư, khó nghĩ

-Nhưng cậu ấy nêu lý do như thế nào khi không trở lại tìm má em?

-Cậu nói khi chuyển quân về nam, ông chưa có đơn vị ổn định, chưa biết đơn vị đóng ở đâu, trong buổi tranh tối tranh sáng đó, cậu không thể trở lại làng quê để tìm lại má em, dù lúc đó ông cũng chưa biết được có em trong đời họ. Mãi đến khi trở lại thì đã mấy năm sau và khi ấy thì má em đã có gia đình mới rồi. Sau đó cậu mới lập gia đình.

-Vậy thì cậu tốt mà, cậu đâu có lỗi hẹn gì với má em.

-Nhưng sao bao nhiêu năm ông đã không về tìm lại em, cho em biết rằng ông..?

Thảo bỏ lửng câu hỏi, tôi cũng có chút băn khăn, nhưng lại cố ý bào chữa cho ông dù tôi chưa gặp ông lần nào

-Có lẽ ba nuôi em còn đó, nên cậu ngại, sợ nói ra có ảnh hưởng gì đến gia đình em… làm hạnh phúc gia đình ba má em xáo trộn không chừng, giờ mọi người đã ra đi, ông muốn em về tìm lại cội nguồn, gia tộc…

-Nhưng em vẫn thấy khó khăn khi ông muốn em gọi ông một tiếng Ba, em đã không làm theo ý ông muốn, khó quá chị ơi!. Bây giờ ngồi đây với chị, em cũng không biết mình đã xử sự đúng hay sai khi từ giã cậu ra về mà vẫn nín lặng. Rồi đây em đâu còn cơ hội gặp cậu nữa, em có khó lắm không chị? Em cứ dằn vặt hoài trong suy nghĩ chị ơi! Em thương Ba em mà!

 

 

Tôi thấy rất thương Thảo, muốn khuyên em hãy gọi cậu bằng tiếng Ba, dù gì cũng đã mấy chục năm qua rồi, những người trong cuộc đã dần bỏ ra đi, chỉ còn lại mình cậu hai thôi, mà cậu rất quan tâm đến Thảo, gọi một tiếng Ba cho ông vui lúc cuối đời, cũng là điều nên làm để giải tỏa những u uẩn trong lòng từ trước đến nay.

 

Nhưng Thảo đã không làm theo sự gợi ý của tôi dù là một cú phone gọi đến cho Ba Thảo mừng. Tính Thảo từ xưa giờ vẫn vậy,..khó khăn, cố chấp, khi đã quyết định một việc gì rồi thì khó mà lay chuyển, cứ nói…từ từ em suy nghĩ đã!. Thà cứ để sự việc trôi đi theo thời gian. Mãi đến khi Thảo trở về lại Việt Nam, cũng chưa một lần gọi phone cho Ba Thảo để cho ông vui, tôi đành chịu và cũng không nhắc nhở nữa, cứ nghĩ dù sao Thảo cũng đã một lần chính thức đến thăm Cha của mình....

 

Nhưng thời gian đã không chìu một ai, bây giờ và mãi mãi nghìn thu sau, người Lính già ngoài chín mươi tuổi kia không bao giờ được nghe tiếng gọi Ba ơi từ cửa miệng của người con gái bao năm xa cách của ông nữa, vì Thảo về VN mới có một tuần, chưa kịp ổn định lại đời sống thường nhật sau chuyến đi xa, Thảo đã vĩnh viễn ra đi sau một cơn đau bất ngờ, lúc đang ngồi thiền và Thảo ngã xuống, đưa đến bệnh viện thì em hôn mê và không bao giờ còn tỉnh dậy nữa. Đám tang em đã làm những người thân khóc ròng, nhưng không ai muốn đưa tin cho cậu Hai của Thảo biết.

Cậu Hai chắc buồn nhiều nếu nghe tin dữ ?

Lê Thị Hoài Niệm.

 





KÍNH TIỄN ANH

Anh ơi! “Đi” thật rồi sao?

Tim em đau xót, mắt trào lệ rơi

Bữa kia anh vẫn còn ngồi

Bên em than vãn cuộc đờì bể dâu.

 

Quê nhà anh xa đã lâu

Chưa lần về lại, nỗi đau nào tường

Anh thương Cha Mẹ chúng mình

Nửa vòng trái đất mắt vương nỗi buồn.

 

Ngày mẹ mất, anh khóc ròng

Bên anh, em gái hết lòng ủi an.

Em thương anh thật vô vàn

Tin anh đau nặng xốn xang bao người.

 

Giúp anh, em cố gượng cười

Thức ăn bồi bổ, khuyên người cố ăn.

Nhiều lúc anh tâm sự rằng

Anh buồn gia cảnh quấn quanh cuộc đời.

 

Ước gì trở lại đôi mươi

Sông Ba, Tháp Nhạn tiếng cười rộn vang.

Gia đình, bạn hữu, trường làng

Bao nhiêu kỷ niệm anh mang riêng mình.

 

Đêm đêm em ngồi đọc kinh

Cầu nguyện Phật tổ an bình cho anh.

Nhưng rồi sóng dậy đất bằng

Anh không từ giã trối trăn một lời.

 

Anh trai! Anh đi thật rồi?

Nén hương khấn nguyện Phật Trời độ Anh.

Về chốn miên viễn an bình

Bỏ lại trần thế sự tình dối gian.

 

Đầu em thêm chiếc khăn tang.

Âm dương gia tộc đôi đàng chia xa

Mẹ đang đón anh về nhà?

Kính anh, Kính Mẹ, Kính Cha VĨNH HẰNG!!!

 

Tuyết Liên kính tiễn.

(Viết dùm cho TL)