Trong giấc mơ tối qua, tôi lại thấy
má tôi về, một ao ước mong chờ trong mấy năm liền, mà những chị em khác trong
nhà, chưa bao giờ có duyên may hạnh ngộ.
Người
má tôi hơi ốm, bà mặc chiếc áo màu lam. Má tôi đứng giữa những dãy nhà, có cái
đã cất xong, cái đang lợp tranh dang dở, trên một khoảng đất rộng nhưng mờ mờ
ẩn hiện như giữa vùng đồi núi cây cối xanh tươi. Má tôi đứng giống như
người “cai” đang coi thợ làm việc, nhưng tôi chỉ thấy một mình má tôi và bốn bề
thật yên tĩnh, thinh lặng. Tôi mừng lắm, muốn chạy đếm ôm lấy má, nhưng như có
một bức màn vô hình ngăn cản nên vẫn đứng xa Người, chỉ cất tiếng hỏi:
-Má có khoẻ không? Sao má cất nhà để làm gì? má tôi cười vui
vẻ trả lời:
-Ừ, thì má cất nhà sẵn để mai mốt cô Năm, thiếm Hai, thiếm
Thông đến có mà ở ...
-Nhưng mà má..., tôi chưa
kịp nói hết câu, má tôi đã cắt ngang:
-Má giúp
gì được cho ai thì giúp con à, giờ má cũng rảnh mà..., thôi má đi
nhen...
Giật mình, giấc mơ tan biến, nhưng
lời nói của má tôi như còn văng vẳng đâu đây. Má cất nhà! Mà cất nhà sẵn để
những người bà con, hàng xóm, bạn bè của má tôi đến có chỗ để ở ? Tự nhiên tôi
bật khóc, những giọt nước mắt nhớ thương má vô cùng.
Má tôi mất lâu rồi, được chôn cất
trên một ngọn đồi ở Suối Cát, Cam Lâm, Khánh Hòa (Nha trang). Mặt quay nhìn về
hướng biển, và chung quanh là trùng trùng cây cối, dốc đồi còn hoang vu chưa
khai phá. Má tôi nằm yên nghỉ nơi đó mấy năm rồi, mỗi lần về thăm nhà, mộ má là
nơi chúng tôi đến viếng đầu tiên, và vẫn cầu nguyện linh hồn má sớm được siêu
thoát về chốn vĩnh hằng. Nhưng nơi ấy, má vẫn còn lo
cho nhiều người khác như những ngày Bà còn ở thế gian sao? Dòng hồi ức tôi bỗng
chạy ngược về những ngày tháng cũ..
Nhà Ngoại tôi có đến chín người con,
vì dì Út tôi được gọi dì Mười. Khi chúng tôi góp mặt với đời thì không bao giờ
thấy ông bà Ngoại nữa. Má tôi kể quãng đời niên thiếu của bà sao vô cùng khổ
sở, dù ông Ngoại hồi sinh tiền cũng có làm chức hương xã gì đó. Ông bà tôi
mất sớm, nhà cũng không có nhiều ruộng vườn, má tôi lại là chị lớn, nên phải
bương chải kiếm ăn và phụ nuôi mấy người em. Những lá trầu xanh, trầu vàng đem
nguồn vui đến cho người già mỗi chiều mỗi sáng, hay trong những dịp hỏi cưới,
đình đám trong làng, mà mỗi lần đi về xa hơn mươi cây số đường quê, cũng là
nghề nuôi sống má và các dì trong tuổi ấu thơ. Mãi đến khi các dì có gia đình
riêng, má tôi mới gặp được ba lớn tôi, đang làm chủ một tiệm buôn dưới phố. Và một thời gian sau thì ba lớn tôi mất, má tôi đã đi thêm
bước dài với ba tôi, cũng đã mất vợ vì cơn bạo bệnh. Tôi có được hai người chị
từ hai dòng khác nhau.
Khi tôi chập chững đi vào mẫu giáo
là những năm vừa đình chiến ở miền Trung.
Trong chiến tranh chống Pháp, người
dân quê chúng tôi, theo lời ba má tôi kể lại, là
những người luôn luôn phải hứng chịu nhiều tai ương, thảm họa, dù là những
người dân lương thiện chí thú làm ăn. Một khi có giặc Tây đi lùng, nhất là
những tên “Tây mặt gạch” đóng quân ở núi Hiềm,
chúng thường bắt đàn bà hãm hiếp nếu gặp, đàn ông thì chúng giết không nương tay, người dân quê phải
gồng gánh dắt díu nhau chạy vào tận hang cùng núi hiểm để trốn. Ngày đó khổ sở vô cùng tận, đi họp chợ phải họp ban đêm, lúc
này má tôi đổi qua nghề bán vải, gánh vải kẽo kẹt trên vai với ngọn đèn dầu leo
lét phải băng đồng đi trong đêm tối để đến chợ, tờ mờ sáng phải dọn cho nhanh
để về nhà coi sóc con cái và chuẩn bị chạy giặc.
Lần đó, trước ngày “đình
chiến” không bao lâu, nghe tin giặc Tây ở dưới núi Hiềm sắp đi lùng, dân làng
bèn rủ nhau chạy vào núi trốn, nhưng má tôi thân bụng mang dạ chửa sắp đến ngày
sinh, ba tôi sợ đường rừng má tôi không cách nào đi nổi, bèn chạy đại đến bến
sông Ba, may ra sang được bên kia bờ giặc sẽ không đi lùng tới kịp. Nhưng bến
sông ngày thường vắng vẻ bao nhiêu, thì lúc này, màn đêm đã buông xuống từ lâu,
ấy vậy mà người với người đen nghẹt, tìm được một chiếc ghe con để sang sông
thiếu điều muốn đánh nhau, nhưng cuối cùng cả nhà tôi cũng được ngồi trên ghe
như ý, nhưng khi vừa đẩy ghe rời bến thì trời hỡi, ba tôi kể lại là chiếc ghe
như sắp muốn chìm. Ba tôi và người cậu họ đã nhảy xuống ghe, hai người ra sức
bơi để kéo chiếc ghe con trở lại bờ, tránh được những cái chết oan khiên vì có
nhiều chuyến ghe bị chìm bởi đêm đen mà dòng sông thì nước đang chảy xiết.
Khi đã vào bờ, ba má tôi bèn gồng
gánh bồng bế lũ con và cùng một nhóm dân làng chạy ngược vào núi. Nhờ
cậu họ tôi bỏ hai đứa cháu nhỏ, là hai đứa em gái sinh đôi
của tôi, vào hai đầu thúng mà gánh, nên bọn trẻ tôi không bị thất lạc. Những
người dân của thôn Lạc Chỉ gần dốc núi cũng che chở cho chúng tôi một thời gian
ngắn chờ má tôi sinh nở, họ rất nghèo nhưng rất có tình người, lo lắng, giúp đỡ
cho các gia đình chạy loạn trong khả năng cơm độn, mắm kho và bắp hột rang, đem
giã nhuyễn và trộn thêm
chút đường thành món ăn gọi là “lớ”. Nhưng khi
nghe tin giặc Tây lên sát quá cũng phải bỏ nhà cửa chạy vô núi sâu
mà trốn (có lần tôi đã về tìm được một người ơn của gia đình tôi, dì sống
trong một hoàn cảnh vô cùng cơ cực dưới mái tranh xiêu, dù trước đó gia
đình dì cũng “có công với cách mạng”, dì nói nhiều lần muốn ra nằm ngoài
sân rồi uống thuốc độc cho chết, nhưng số phận nghiệt ngã cứ bắt phải sống lầm
than, tôi giúp cho dì một số tiền, dì cầm tiền trên tay mà nước mắt chảy
ròng, nói lần đầu trong đời cầm số tiền quá lớn.)
Đêm đó má tôi suýt bị cọp vồ vì treo
cái võng nằm ru em nhỏ mới sanh cạnh bờ suối, gặp lúc con cọp mò ra uống nước.
Nhìn hai con mắt đỏ ngầu của nó, má tôi điếng hồn, cứng họng không la nổi tiếng
nào, may nhờ có người bà con đi cùng nhìn thấy, họ bèn la lên và bao nhiêu thứ
vật dụng có thể gây nên tiếng động là họ đánh ầm ĩ lên. Cọp bỏ chạy vô rừng sâu
biệt dạng. Má tôi thoát nạn và luôn nhớ ơn những người cứu mạng.
Người dân quê mừng vui khi nghe tin
đã đình chiến (1954). họ chạy ra bờ sông, rồi chờ nhau để về nhà. Cũng lời ba tôi kể
lại, trong lúc dân làng tụ lại thì "máy bay bà già" của Tây xẹt
ngang thả một tràng bom, cô gái mới mười bảy tuổi con bác Ba Sâm trúng đạn chết
ngay tại chỗ, ngày vui trở thành một ngày tang thương, không riêng gì nhà Bác
Ba, mà mọi người phải cùng góp sức đóng hòm gỗ, rồi đi đào huyệt để chôn cô gái
nội trong ngày, sợ “máy bay bà già Tây” trở lại thả bom lần nữa.
Đến vài ngày sau Ba Má tôi mới
lần mò trở lại nhà, lúc ấy gọi là “hồi cư”. Vì nhà tôi rộng rãi, nên ba má tôi
đã cho một gia đình người quen có gánh “hát bội”
ở nhờ, họ cũng là những người đi tản cư, lánh giặc từ thôn ngoài. Nhưng không
ai ngờ, “máy bay bà già Tây” bay trở lại làng quê tôi để ném bom lần cuối
trước khi rút đi. Khi còi báo động có máy bay đến, mấy người nhà này ỷ lại
không chịu chạy ra hầm trú ẩn ở xa theo lời gọi của ba tôi và gia đình tôi, họ chui trú ngay căn hầm dưới nhà, nơi, theo lời ba tôi
nói là chỉ để trú đạn …mọt chê của lính Pháp từ đồn bắn
lên. Nên khi nhà bị trúng bom cháy, cả vợ chồng và ba người con bị nhũn ra như
những con bún vừa mới bắt ra khay còn nóng hổi.
Người chồng bị nóng quá, chạy thoát ra khỏi hầm, chạy băng ra
cổng và chạy chui vào cái ống mương nước (dân quê gọi là “lù”) bằng xi măng ở
cạnh nhà để trốn, nhưng khi máy bay đi xa rồi, thì không thể nào chui ra được,
vì thân thể đã đàn hồi trở lại dạng bình thường, mà ống mương nước thì quá nhỏ,
đám dân làng phải hè nhau kéo ông ta ra nên cả người bị tróc da, may mà không
bị thiêu sống như bà vú già nhà tôi chậm chân, vì tiếc dở bữa ăn.
Người bà đã cháy đen, nứt nẻ, cong
lên như con heo quay già lửa, lời ba tôi kể lại, chứ đám con nít chẳng có đứa
nào được phép về nhà để nhìn bà vú lần cuối. Và đó là bữa ăn cuối cùng của bà.
Má tôi khóc quá trời đất, vừa thương người vú già thân tín bao nhiêu năm, đã bị
chết một cách thảm thương, vừa tiếc của, vì tất cả tiền bạc (hằng mấy bao bố
tiền “cụ Hồ”), tài sản gầy dựng cực khổ sau mấy lần bị máy bay của Pháp thả bom cháy rụi, cuối cùng cũng lại bay lả tả trong gió, bay tấp đến tận
cánh đồng làng, mà người nhặt lại được không phải là ba má tôi.
Nhưng nhờ bà con, làng xóm giúp đỡ,
ba má tôi dựng lại được căn nhà, dù bằng vách đất sét và lợp tranh, nhưng rộng
rãi, thoáng mát. Sập vải ở chợ Phú Nhiêu là nguồn sinh kế để má nuôi cả gia
đình phụ với ba tôi coi ngó mấy mảnh ruộng của ông Nội
tôi chia cho. Nhưng không bao lâu sau đó, trong thời gian tranh tối tranh sáng
chưa có chính phủ rõ ràng, trong lúc có một số người theo Việt cộng đi tập kết
ra Bắc, một số người ngoài Bắc lánh nạn Cộng sản đi vào Nam, thì ông Nội tôi đã
bị bọn chúng bắt đi cùng nhiều người khác nữa, vì bị liệt vào thành phần “địa chủ, phú nông”. Đoàn người khốn khổ
bị bắt này, đã bị máy bay của Tây thả bom chết tại Quảng Ngãi, trên đường đi ra
Bắc để bọn Việt Minh đem ra “đấu tố” trong chiến dịch “cải cách
ruộng đất” của chúng....
Vừa nuôi bầy con sáu đứa, vừa
cưu mang cả một gia đình bạn đang trong tình trạng dưỡng thương. Má tôi luôn lo
lắng cho người khác trong nhiều tháng liền sau đó.
Những tháng ngày có vẻ bình yên đến với người
dân quê sau khi có chính phủ mới.
Bọn trẻ tôi lớn lên trong khung cảnh thanh bình của làng quê. Buổi sáng, má tôi
gánh hàng lên chợ lúc mặt trời chưa mọc ở hướng đông, bà phải đi hết một cánh
đồng, qua vài ngôi nhà cất cheo leo giữa đồng, mà nhà nào cũng trồng đầy
cây cao, bóng rậm, khiến người yếu bóng vía nhìn vào những cành lá đong đưa với
những hình thù quái gỡ, cứ tưởng đám ma trơi đang đánh đu trên cành cây
nhát mình, nên có bữa má tôi chạy trối chết, tới chợ rồi má vẫn không thở ra
hơi. Chỉ nghe má tôi kể lại mà mấy lần theo má đi chợ khuya, nhất là mùa tết,
có thêm mấy người phụ má gánh hàng lên chợ, chị em tôi
cứ vừa chạy mà thót lạnh sống lưng, như có..ma đang chạy sau mình nên cứ chen
chạy giữa.
Ba tôi coi sóc ruộng
vườn và cái máy xay lúa, dù đã có chú Hai, người thợ chuyên môn đứng máy. Chúng
tôi lại chuẩn bị cắp sách vào trường làng. Thời đó, làng quê tôi còn thưa thớt
người, đi đâu cũng thấy vườn tược rộng thênh thang và ruộng lúa ngút ngàn, nên
đi trên đường cứ thấy xa mút mắt, nhất là những cánh rừng hoang, nhiều khi có
cọp về trốn để sanh nở, dù làng quê tôi không có gần núi, khiến dân làng phải
tụ tập nhau đi đánh đuổi cọp.
Có
năm được mùa, hương chức làng tôi mướn nguyên một gánh hát bội về làng, người
ta cất một cái rạp thật to trên những mảnh đất ruộng đã gặt xong, rồi họ đi
cùng làng khắp xóm gõ mõ đánh trống, kêu gọi bà con về xem hát. Những lúc đó,
làng tôi vui không tưởng, nhứt là đám con nít tụi tôi, được đi xem hát
bội tự do, được nhìn Lữ Bố phóng ngựa như bay bằng cái …chổi lông gà trên sân
khấu, để kịp giờ đến nhà Điêu Thuyền đẹp lộng lẫy đang bị Đổng Trác cha bụng bự
đòi cưới làm vợ. Bọn con nít cứ thấy chỗ nào trống là len vào xem thả cửa, vỗ
tay, la hét inh ỏi, không cần phải chờ gần mãn tuồng mới được vào coi cọp như
mấy lần đoàn về hát lấy tiền..
Thỉnh thoảng mấy anh chị lớn trong
làng, bạn của chị
lớn tôi, cũng được Má tôi “bảo trợ” để tập
tành làm những đêm văn nghệ có thi-ca-múa-hát cũng hay đáo để. Tôi vẫn nhớ chị
Năm Kiểng, người có vóc dáng thanh tú nhất làng, đã đóng vai Kim Liên trong một
vở kịch gì đó mà tôi không nhớ tên, và anh Hai Lành,
chắc hồi đó anh đẹp trai lắm, đóng vai Đinh Lăng. Tuy còn nhỏ, nhưng không hiểu
sao tôi lại nhớ mấy câu chị Kim Liên than thở khi không tìm thấy
anh Đinh Lăng : "Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ? Anh của em yêu quí nhất
đời. Anh đi mù mịt xa khơi, Chim trời tung cánh phương trời mãi bay…" trong
khi một anh nữa tên Khánh, đóng vai Kỳ Lân, người có quyền thế bắt chị về làm
thiếp, mà anh đóng vai ác làm bọn trẻ chúng tôi rất ghét, đến nỗi gặp anh chỗ
nào là chúng tôi la lên “ Kỳ lân thổi lửa cửa đình, cho xin nhúm lửa kẻo
sình nồi cơm!”
Má tôi lại bắt bọn trẻ chúng tôi
phải đến Chùa cúng bái mỗi ngày rằm hay
mồng một. Ban đầu thì đi chùa của Thầy Bốn. Ngôi chùa ở xóm trên, nơi có con
mương dẫn thủy nhập điền chảy qua làm hai lối rẽ gọi là “ga”. Nơi đó, “Thầy Bốn
trụ trì” đã có vợ con hẳn hòi, đứa lớn nhất cỡ tuổi của anh tôi, Thầy ở
chung với mẹ vợ và cô em vợ rất xinh, má tôi nói thế. Nhưng khi vợ Thầy mất bị
bạo bịnh, thì mẹ vợ của Thầy lại…gả cô em vợ cho Thầy luôn, nên má tôi không
còn đi chùa đó nữa, và cũng không còn cho chúng tôi đến để Thầy dạy kèm học chữ
nữa.
Dù má tôi không biết nhiều về chữ Việt, nhưng không biết từ đâu, bà lại thuộc
rất nhiều chuyện dân gian như Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối, Chàng
Nhái kiễng tiên, Con chó đá, Tấm Cám, Thạch Sanh-Lý Thông, Ngưu lang Chức Nữ,
Lưu Bình Dương Lễ, Phạm Công Cúc Hoa v…vv….mà mỗi buổi trưa, khi chúng tôi ngồi
nhổ tóc ngứa cho ông bà, thì bà kể chuyện. Lớn lên một chút, khi đã biết đọc,
thì ngược lại, tôi là đứa con phải đọc cho ba má tôi nghe những chuyện đăng
trên nhựt trình thời bấy giờ như chuyện Tam quốc Chí, Phong thần, Thủy Hử, Tây
du ký hay chuyện trinh thám như Bàn Tay máu, Con tàu ma, ….., chuyện cổ tích
Ba-Tư như Hoàng tử Alibaba và công chúa Bạch Mai, Cây đèn thần,…, chuyện dã sử
như Lửa cháy thành Phiên Ngung, Loạn đảng Đại La thành v..v.. do anh tôi, có khi chính tôi, phải “chòi” xe đạp ra tận Phú
Thứ để mua lấy. Thời gian tuổi nhỏ sao mà yên bình quá!
Từ lúc đến chùa này, má tôi thành “Mạnh
thường quân”- từ ngữ bây giờ họ thường dùng để chỉ những người bỏ tiền của giúp
đỡ một việc làm có ích nào đó, chứ hồi đó má tôi chỉ thường đem gạo, nếp hay
nhang đèn đến chùa để cúng. Khi có lễ lạc gì thì bà đem bánh cớm nếp, bánh in,
bánh ú, bánh tro hay bánh ít lá gai do chính bà chỉ cho mấy chị tôi làm,
để nhà Chùa phát cho con nít trong làng. Bởi đó, mỗi mùa Trung thu đến,
dưới ánh trăng ngà, ngoài việc được xem những màn “múa lục cúng” do các chị lớn
múa với những cây đèn cầy lồng trong hoa sen đẹp ơi là đẹp, nhà chùa còn tập trung
con nít lại, xếp thành nhiều hàng dọc để nhận quà bánh, thường là bánh ít lá
gai, bánh in đậu xanh, v..vv.. thì con bé lanh chanh tôi, vừa nhận xong ở hàng
này, đã chui vào hàng khác đứng tiếp, mà mấy chị lớn chẳng có …la rầy như mấy
đứa bé kia. Có sự “thiên vị”?
Căn nhà lợp tranh nhưng rất rộng rãi
của gia đình tôi lúc ấy, nằm ở một vị trí rất thuận tiện ở trong làng, trên một
mẫu đất rộng, phía trước mặt là con hương lộ, phía Bắc là con mương dẫn thủy
nhập điền, nơi bọn trẻ chúng tôi vẫn nhào xuống bơi lội mùa nước nổi, đứa nào
chưa biết bơi thì ôm nguyên một khúc cây chuối cho nổi trên mặt nước, chứ không
dại nghe lời xúi bậy cho chuồn chuồn cắn rún sẽ biết bơi, nơi có cây cầu lớn
bắt ngang qua, để tối tối vào những đêm trăng sáng, trai thanh gái lịch tập
trung lại, ngồi trên thành cầu chuyện vãn, hát ca. Bên hông nhà là con mương
nhỏ, chi nhánh từ 5 “cái lù” chảy qua, với dòng nước quanh năm suốt tháng đó,
Ba tôi đã đào hai cái ao cá thật to trong vườn nhà, cá lội vào không biết cơ
man nào là cá, nơi chúng tôi vẫn làm …ngư ông thả cần câu mà không cần chờ đợi,
cá vẫn cắn câu ào ào, nơi mà Ba tôi trồng rất nhiều cây ăn trái, nào mận, nào
mít, nào ổi, những trái ổi no tròn, chín mọng, mà có đêm, mấy tên con trai phá
phách trong làng, muốn trèo mương vào hái trộm ổi, bị mấy chị em chúng tôi rình
liệng đá ra, khiến chúng bỏ chạy nên lọt ũm xuống mương ướt như chuột lột. Nơi
mà có lần người sĩ quan chỉ huy đơn vị Lính Địa phương quân qua làng,
nhìn những trái ổi no tròn, trắng mọng, rồi nhìn con mương Ba tôi đào dẫn nước
chạy quanh trong vườn, đã hỏi con bé lúc đó vừa bước chân vào bậc
trung học có biết “dòng sông Thanh Thủy” không? Người Lính đó về sau vẫn lui
tới nhà tôi ở thành phố…
Có nhiều đêm sân nhà tôi là chỗ tập
trung con nít và bà con lớn bé, trai tráng trong làng, thường thì ba tôi thắp
ngọn đèn “măng xông”, sáng cả một khoảng sân rộng, và trên nền sân xi măng, má
tôi trải chiếu cho bọn con nít nằm nghe những người lớn kể chuyện đời xưa,
nhưng hấp dẫn nhất vẫn là những chuyện ma, chuyện ma kéo gỗ qua
làng, chuyện ngựa rung lục lạc nửa đêm với hằng ngàn quân di chuyển, chuyện ma
da kéo chân người thay thế khi lội qua suối và cả chuyện ma cà rồng hút máu
người…., dù sợ, nhưng không hiểu sao mấy đứa con nít vẫn cứ thích nghe kể, đến
nỗi khi nghe xong không dám về nhà.
Những người Lính dân vệ, sau
gọi là Nghĩa quân, cũng chọn nhà tôi làm “bản doanh” vì có sự lo lắng của má
tôi. Bà thường “tiếp tế” cho họ nay cái áo, mai vài ký gạo đem về nhà phụ giúp
gia đình vì lương lính quá ít ỏi, nhiều lúc với đàn vịt cả ngàn con, được cậu
họ tôi chăn ngoài ruộng, cũng được chiếu cố thường xuyên, Nhiều lần những người
Lính địa phương quân về làng công tác, cây đờn ghi-ta và cái sân rộng của nhà
tôi cũng là nơi thu hút bọn con nít, ngay cả những anh chị lớn gần có gia đình,
họ đến để nghe những người Lính hát và tập cho họ những bài ca như Tình lúa
duyên trăng, Trăng rụng xuống cầu, Chuyến đò vĩ tuyến, Trăng thanh bình, Tình
tự tin v..v. và những bài hát có những lời hát đơn sơ mộc mạc nhưng gói ghém
tình cảm của người dân quê mà đến mãi bây giờ tôi vẫn còn nhớ vì đã từng
hát thuộc lòng: “Chiều hôm nay có
bàn tay lại nắm bàn tay, hứa cùng nhau chung sức vai gầy, bên luống cày chàng
ca em cấy…”( tôi không nhớ tựa đề và của nhạc sĩ nào) hay “…quê
em có sông Hồng thì quê anh cũng có dòng sông-An phú đông, ôi An phú đông! Có
những dòng sông mênh mông yêu nhau như chuyện vợ chồng..”, hoặc
“Anh đi về đâu mà chiều vàng vương trên mái tóc, anh đi về đâu mà nụ cười
vẫn thắm trên môi …” Ngay cả lính trung đoàn 47 khi về làng, nhà tôi cũng
thành một phần trạm tiếp liên của họ, lúc nào cũng “Bắc bình, anh dũng, đống
đa, tư tưởng, lê lai, non nước, …” những mật mã truyền tin kêu vang trong máy
PRC10, thời gian chúng tôi chưa đủ lớn để biết sợ khi “Mặt trận giải phóng miền
Nam” đã xuất hiện ở làng trong.
Một buổi sáng má tôi đi chợ sớm đã
phải hốt hoảng trở về và cấm mọi đứa nhỏ không được đến trường tiểu học vì có
“lính giải phóng” đi bắt người, nghe nói họ xuất hiện trong chợ, trong trường.
Những người đi chợ sau ngang qua con lộ chính nhà tôi nghe tin dữ đều ngưng
lại, má tôi lại phải trả lời những thắc mắc của họ. “Lính giải phóng” chỉ là
những “thằng Chín”, “con Mận”, “chú Năm An”, “chị Bảy”, họ cũng là những …người
làng, nhưng vì “bất mãn chế độ”(?), hay có cha mẹ, anh em bị bắt vì ngày trước
đi KHÁNG CHIẾN CHỐNG TÂY rồi theo Việt minh. Ngay cả ba tôi cũng từng là “tù
nhân” của chế độ mới sau khi có Thủ tướng NĐD. Lúc đó má tôi vừa lo buôn bán,
vừa nuôi em nhỏ, lại lo lắng cơm nước cho ba tôi ở trong tù, vì nhiều khi nhà
tù xã đông quá, nên người nhà phải “tiếp tế” thức ăn, và thuốc men để chữa trị
khi bệnh hoạn. Và tôi, đứa con nít thường được má giao công tác “chòi” xe
đạp (chưa đủ lớn để ngồi lên yên xe, nên phải luồn chân qua đòn ngang mà đạp)
đem cơm vào nhà tù cho ba. Nhưng một thời gian sau ba tôi được thả ra, vì không
có tham gia với Việt minh Cộng sản. Ba tôi nói không theo VM, vì ông biết
bọn CS không ưa gì những người có chữ nghĩa và thuộc thành phần địa chủ - phú
nông. Trong
khi những người khác có liên hệ với những người đi tập kết, lại bị những người
của chính phủ mới có danh hiệu “cần lao nhân vị” gì đó lùng sục bắt bớ nên tạo
thêm lằn ranh quốc cộng ở miền quê, từ đó (?).
Ba tôi và đám con trai rời khỏi làng
quê vào thành phố rất sớm, sau khi bị “quân giải phóng” bắt vào rừng vì tội
“nuôi dưỡng lính quốc gia”, và được thả sau một tháng "học tập
tốt” . Dù biết rằng ba tôi đi, má tôi phải vất vả nhiều
lắm, nhưng bà không cam lòng để ba tôi chịu khổ có khi chết oan uổng vì đám
giặc nằm vùng, hoặc lên núi. Ba tôi đi là làng tôi mất đi một người đắc lực
giúp làng, từ việc nhỏ đến việc lớn, nhất là mỗi lúc có đám ma chay,
thì má tôi lo vải, ba tôi cắt may áo tang, phụ lo tẩm liệm cho người chết. Có
lần bảy người Lính cùng hy sinh trong một trận đánh lớn, họ đem xác về làng, và
ba má tôi cùng dân làng đã lo tẩm liệm thật chu đáo để những người Lính có
trách nhiệm đưa những quan tài trở về nguyên quán, một an ủi cho gia đình có
con hy sinh ngoài trận mạc (ở làng quê lúc đó làm gì có Ban Chung sự).
Những đêm đen hãi hùng mà bọn trẻ
nhỏ chúng tôi phải chứng kiến, khi mà những người mệnh danh “Mặt trận giải
phóng miền Nam” xuất hiện. Hằng đêm, khi họ về làng, kéo theo những tiếng chó
sủa vang rân, tiếng mõ, phèng la đánh inh trời, rồi tiếng loa rợn người trong
đêm vắng “đồng bào thức dậy, mở cửa, thắp đèn lên”. Có những đêm họ đi
lùng bắt những người mà họ cho là “có tội với nhân dân”, và đem đi xử bắn với
một “bản cáo trạng” thật dài. Lần đó, cả nhà chúng tôi gần như chết điếng hết,
khi họ đem “phạm nhân” đến “xử tử” ngay cây cầu trước nhà tôi, cây cầu đúc mà
một thời gian trước đó, là chỗ hội họp của nhiều người từ già đến trẻ, chỗ có
tiếng cười đùa vui, có tiếng đờn, giọng hát, và nay trở thành “pháp trường” cho
họ xử tử người dân..
Đó là ông Năm thợ rèn, người dân
làng độc nhất theo đạo Thiên chúa, nên mỗi chúa nhật ông phải đạp xe xuống nhà
thờ lớn dưới thành phố đi lễ. Thế là họ ghép tội ông đi làm Việt gian báo cáo
tình hình cho “địch”. Chẳng may đêm đó ông chưa kịp "đi ngủ", (thường khi đêm xuống, những người đàn ông,
trai trẻ bất kể trai hay gái trong làng phải đi đến nơi nào có
lính đóng quân, có an ninh mà ngủ nhờ nhà dân ở đó, ngay cả con bé như tôi, nhiều khi
cũng phải đạp xe ra nhà Dì Bảy tôi ở Mỹ Lệ để ngủ nhờ) thì bị bắt và bị đem “xử tử”. Khi họ đọc xong bản
cáo trạng thật dài, mà chúng tôi ở trong nhà nghe tiếng được tiếng mất, là một
tràng tiếng súng nổ lạnh người, tiếng hét ông Năm chỉ thoáng nghe rồi im bặt.
Thời gian ngắn sau đó họ đến gõ cửa nhà tôi, và má tôi là người đi mở cửa, má
tôi luôn “đứng mũi chịu sào” che chở đám con như con gà mẹ sẵn sàng giương đôi
cánh để che cho lũ gà con trước cơn giông dữ,
vì chị em chúng tôi sợ quá rúc lại với nhau. Khi không tìm thấy người họ muốn
bắt là ba tôi, họ thẳng thắn đòi tiền “ủng hộ”, một hình thức đóng thuế thân
cho ba tôi. Và sáng hôm sau, những người dân đi chợ ngang qua cầu, đã hãi hùng
khi nhìn thấy một xác người đã bị mất nhiều phần thân thể (bị chó ăn) cạnh vũng
máu thẫm khô.
Và thời gian trước đó không lâu, nhờ ba tôi “say rượu” nên cả nhà tôi
thoát chết. Chẳng qua là ngày giỗ của ông tôi, nên ba má tôi đã mời bà con
trong xóm, đơn vị lính và có nhiều vị chức sắc trong làng đến ăn giỗ. Đêm đến
họ muốn ở lại chơi, nhưng má tôi từ chối, vì toán lính nghĩa quân đã đưa lính
đi “kích” từ chập tối, và vì ba tôi đã uống rượu nhiều nên say quá không thể
tiếp khách được nữa, thế là nhóm người kéo qua nhà cậu Bảy bên cạnh.
Đêm tối trời, trong không gian thinh
lặng của khoảng thời gian ngắn sau đó, một tiếng nổ thật lớn, kèm theo những
tiếng súng và tiếng la khóc đến rợn người. Thì ra bọn du kích nằm vùng đã theo
dõi và biết các chức sắc làng đang ở trong nhà cậu, nên quăng lựu đạn và nổ
súng để giết những người trong căn nhà đó. Những người khách chạy thoát được ra
phía sau vườn, nhưng em Dân, con cậu Bảy đã chết một cách tức tưởi, oan khiên.
Sự sống và cái chết đến liền trong tích tắc, mà người chết chưa kịp biết vì sao
mình phải chết.
Có những đêm hai bên
đánh nhau ở làng trong, nhà tôi cũng bị dính vào trong cuộc, khi mà quân trang,
quân cụ của các anh lính nghĩa quân luôn
có trong nhà. Má tôi đã phải cùng mấy chị em tôi dấu vào lẫm lúa cho
thật nhanh. Lúc những người lính nghĩa quân thất thế chạy về qua nhà, ghé vào
giếng lấy nước uống, vì hấp tấp nên bỏ rơi vãi vài vật dụng trong sân nhà tôi,
và chính con bé tôi, vì mùa hè nghỉ học về nhà, đã phải “cầm đèn bão” đi trước,
đàng sau là họng súng dí vào gáy với con người mặc bộ bà ba đen, đằng đằng sát
khí, bắt tôi dẫn ra vườn để tìm kiếm những người nghĩa quân vừa bị thương
chắc đang lẩn trốn đâu đây. Lúc đó hồn vía tôi lên chín từng mây, sau lưng là
họng súng lạnh băng, đằng trước là khu vườn cây lá sum suê, bóng tối dày đặc,
không biết có người Lính nào lỡ núp trong đó, bị phát hiện rồi họ bắn nhau,
chắc tôi là người phải hứng trọn những băng đạn nghiệt ngã. Tội nghiệp má tôi
khóc lóc, năn nỉ họ để má tôi đi thế. Nhìn bà thiếu điều quì lạy van xin họ tha
cho tôi, tôi muốn nhào tới ôm lấy bà, ôm thật chặt má tôi, rồi ra sao thì ra,
nhưng họ cứ dí súng vào lưng tôi bắt đi trước, may quá họ không tìm ra người
Lính nào núp lại. Thoát nạn. Có
những đêm sau đó, họ vào nhà tôi và xé nát hết những hình ảnh phong cảnh hay tài
tử mà tôi đem về trang trí trong phòng khách, vì họ cho đó là…hình ảnh đồi trụy
của bọn tư sản, để cho tôi ngồi trốn dưới hầm trú ẩn mà
tiếc hùi hụi.
Lũy tre làng, con đường quê, bờ
ruộng, con mương, con bò hay gánh lúa là những hình ảnh gắn chặt với đời sống
người dân quê, nhưng cũng là chỗ tựa của những người mệnh danh “mặt trận giải
phóng”. Họ cứ ẩn nấp làng này, hay đào hầm dưới đất, hễ có lính đi tuần thì họ
chui xuống trốn, lính qua làng khác thì họ trồi lên, ban đêm đi phá rối. Ngay
vách tường nhà cô Ba Vân, người có căn lầu hai từng mới cất, vách dựng màu xanh
đẹp mắt, thế mà ban đêm mấy ông "mặt trận" nhào ra viết nguyệch
ngoạc: “Mỹ thua Mỹ rút về Mỹ, anh em binh sĩ thua rút về đâu?”( những năm đầu thập niên 60, ở làng quê đâu
có ai biết ông Mỹ mặt dài hay ngắn, mắt xanh hay đỏ). Họ có “học tập chính trị”, có chính sách đi tuyên truyền rõ
ràng, trong khi vài chú Lính quốc gia thì cứ khơi khơi trước mặt bọn con nít
viết lên bậy bạ: “Đi về chơi đ. khỏi trả tiền..” làm sao mà thu phục
được hết lòng dân, nhất là những người có dây mơ rễ má với cộng sản?
Và cuối cùng tôi phải xa hẳn ngôi
nhà thân yêu lên ở luôn thành phố, cũng để tránh luôn cái cảnh trước đó, cứ chiều
chiều, lúc toán Lính vừa đi kích đâu đó, là mấy chị “giao liên” lẫn “nằm vùng”
xuất hiện, đi khắp xóm lùa mấy đứa con nít tụi tui lại, rồi dạy mấy bài hát
“cách mạng” nào là: “chiến thắng vừa qua C3 ta đánh
một đại đội địch tan xác tan hồn…” những lời hát nghe đầy ắp căm thù, giết
chóc, chứ không giống những bài hát “Tía em Má em..” được Thầy dạy trong
trường học hằng ngày, hay những bài tình quê hương như mấy
anh Lính dạy. Nhưng khi nghe có ai đó la lên: có Lính tới! thế là mấy người đó
phóng như sóc, trốn biệt dạng, để những đứa nhỏ chúng tôi ngơ ngác vừa chạy về
nhà, vừa khóc.
Những ngày ba tôi xa nhà và mấy
đứa con vào bậc trung học ở tỉnh, là những ngày má tôi và hai đứa em gái nhỏ
phải sống trong kinh hoàng hằng đêm, dù có hay không còn ấp chiến lược, ấp tân
sinh. Cứ tối trời, phía “bên kia” về tụ họp dân làng bắt phải đi đào đường, lập
giao thông hào là má tôi phải đi. Sáng ngày lính quốc gia lên kêu dân đi …lấp
lại đường rồi mới ra ruộng hay chợ búa, thì má tôi cũng vác cuốc đi lấp, có khi thì
em gái tôi thay cho bà. Má tôi là người đàn bà thật can
đảm, tình thương dành cho chồng con quá bao la, mênh mông như trời biển, nên cứ
gồng mình sống bám làng vì ruộng vườn còn đó, thóc lúa cần có để nuôi
sống chồng con trong những ngày lánh nạn CS mà chưa có việc làm, chưa tự túc
được cái ăn. Gánh hàng má không còn lo nổi, vì bị “sưu cao thuế nặng” từ những
người mệnh danh “giải phóng”, dù …con nợ của má tôi còn quá nhiều, nhưng cũng
đành buông bỏ.
Rồi vẫn theo lời má tôi kể lại, thêm
một buổi tối hãi hùng kinh khiếp, khi đám người mệnh danh “giải phóng” đó lập
nên “toà án nhân dân” để xử bắn đến ba người một lúc. Họ kết tội những người
dân làng tôi đã "ngoắc” máy bay đến bắn phá sào huyệt của họ. Vì
thông thường thì họ ở chen lẫn với dân, dùng nhà những người có thân nhân đi
tập kết hoặc lên núi làm bản doanh, và cũng chính những người này, ban ngày là
nông dân bình thường, làm ruộng làm rẫy, buổi tối thành những “du kích” đi đặt
mìn, chỉ huy dân phá đường đắp mô, và cũng chính họ, đã đào những hầm trú ẩn,
để dấu những cán bộ nòng cốt của “Mặt trận giải phóng miền Nam”, mà nếu Lính
Quốc gia có đi hành quân lùng sục, hạ sát một vài người, thì chúng la làng lên
là giết dân lành, mà thực chất, là những người có “dây mơ rễ má” với bọn giặc
cộng như anh Bốn A, anh Bảy K, cậu Chín M…..
Má tôi kể đêm đó thật tối trời, họ
bắt loa kêu gọi tất cả dân làng phải tập trung ở giữa một đám ruộng thật to của
ông Chánh trước đồng trống, và ở đó có sẵn một mớ đèn dầu leo lét,
vài cây đuốc ánh sáng lập lòe trông thật ma quái. Trên một “khán đài” có 3 cây
cột, họ cột 3 người dân làng là ông Bảy T, anh Ba H, cậu Mười Ph. , là những người “có tội với nhân dân”! Một bản cáo trạng
dài đọc hoài không thấy hết, với nhiều từ ngữ lạ hoắc má tôi không tài nào hiểu
và nhớ, chỉ biết họ qui tội 3 người này đã dám “ngoắc” máy bay địch đến bắn
phá, tiêu diệt “cơ sở cách mạng” của họ. Và sau đó là những tiếng cắc bùm chỉa
vào đầu từng người một, từng cái đầu ngoẹo xuống với tiếng la hét đớn đau ngắn
ngủn ớn lạnh giữa đêm trường, dù chung quanh người là người, nhưng má tôi nói
giống như cảnh âm hồn địa phủ với một lũ quỉ âm binh đầu trâu mặt ngựa đang vờn
tới vờn lui phun ra mùi tử khí làm lạnh dọc sống lưng, tứ chi người bị tê liệt.
Họ “xử tử” người mà chẳng cần bịt mắt, người xem cũng chẳng dám hé môi, có hãi
hùng kinh khiếp thì cũng ráng mà bụm miệng lại và khóc thầm, má tôi cũng trong
số những người đó.
Cuối
cùng thì má và hai em gái tôi cũng đã bỏ làng trốn đi trong đêm tối, khi mà ở
làng ngoài có tổ chức một đêm văn nghệ với đám “văn công “ của “Bộ đội”. Má tôi
lấy cớ đi xem văn nghệ và trốn luôn vào thành phố ở, bỏ lại ruộng vườn, nhà
cửa, thóc lúa và cái máy xay gạo nằm chơ vơ không ai coi sóc. Một lần “lánh nạn
Cộng sản” cũng quá khó khăn không thua gì những người miền Bắc di cư năm 54(?).
Gần
mười năm sau đó, một lần nữa, ba má tôi không còn nước mắt để khóc khi thằng
con trai Lính vào tù, thằng con mà má tôi thương nhất, bà không những nuôi con
là Lính trong những ngày tháng trước 75, mà còn nuôi cả đám bạn Lính của con
bằng những bữa cơm đầy, khi đám Lính có những ngày nghỉ phép từ Trung tâm Huấn
luyện Lam Sơn-Dục Mỹ.
Và cũng chính Má là người đã
lặn lội đi vào các trại tù từ Cà Tum, Trảng lớn, Bù Gia Mập để thăm
nuôi thằng con trai Lính...ngụy đang bị "tù cải tạo". Để rồi cuối
cùng, những đứa con lần lượt xuống thuyền vượt biển từ thằng con Lính mới ra tù,
đền thằng Út đi “nghĩa vũ quân sự” của cộng sản, mặc cho gió to sóng cả, sống
chết chưa biết ra sao. Má tôi cắn răng nuốt ngược nước mắt vào lòng đưa từng
đứa con ra chỗ hẹn, thế cho ba tôi đang bị đám cán bộ khóm phường cứ dòm ngó,
theo dõi. May mà phước đức nhà tôi còn đầy, nên đám con của má đã đến được bến
tự do an toàn.
Bây giờ, mỗi lần con tôi ở xa về
thăm nhà, khi chúng rời đi, tôi buồn khóc nhớ con đến quặn lòng, mặc dù biết rõ
con đi về đâu, có điện thoại gọi từng giờ. Càng thương nhớ con, tôi lại
nhớ và thương má tôi quay quắt, thắt ruột. Tôi cứ nghĩ đến cảnh bà phải chịu
đựng sự xa các con, cứ từng đứa con lần lượt rời nhà ra đi mà chưa biết trôi
giạt về đâu, có khi chết mất xác ngoài biển khơi không chừng, những ngày ấy má
tôi buồn biết chừng nào, nhưng bà vẫn cam tâm chịu đựng cho đến ngày nhắm mắt
xuôi tay, cũng không đủ mặt đàn con trong giờ phút ngậm ngùi tiễn biệt..
Tiếc rằng chúng tôi, những đứa
con- cháu của má, chẳng có ai huởng được hết những đức tính của bà. Má
tôi, một người đàn bà bình thường, ít chữ nghĩa, nhưng sao lại có quá nhiều từ
tâm, sự hy sinh tột bực và lòng can đảm cũng như sức chịu đựng vô biên.
Lê thị Hoài Niệm.
M Ẹ TH Ư ƠNG ƠI!
Nha
trang, Phù đổng con về
Tưởng
nhìn dáng Mẹ đứng chờ bên hiên
Trong
vòng tay ấm Mẹ hiền
Con
miên man kể nỗi niềm nhớ thương
Từ
ngày con bỏ quê hương
Từ
giã Cha Mẹ xuống thuyền ra khơi
Mẹ
buồn, ngăn giọt lệ rơi.
Từ
trong ánh mắt vạn lời yêu thương
Tim
gan quặn thắt, tình vương
Vì
đâu con - Mẹ hai đường chia xa.
Thu
tàn, đông đến, xuân qua
Ngần
ấy năm tháng Mẹ già đơn côi
Mẹ
đau. Ruột thắt gan rời
Vượt
ngàn cây số qui hồi chốn quê
Nhưng
con đau đớn thẫn thờ
Sao
Mẹ nỡ bỏ đi về cõi nao?
Nhìn
di ảnh Mẹ trên cao
Nén
hương khấn nguyện mắt trào lệ rơi
Con
về đây Mẹ thương ơi!
Nghìn
thu vĩnh biệt không lời từ ly
Nguyện
cầu Phật tổ từ bi.
Phóng
quang tiếp độ, hộ trì Mẹ con
Lê
thị Hoài Niệm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét