|
ảnh internet |
Thế là “thuyền đã ra cửa biển”! Và bây
giờ tôi đang ngồi trên chiếc ghe con dài không quá 12 thước, trôi 1ênh đênh
trên mặt đại dương, chung quanh là trời và nước mênh mông, mặt nước màu xanh
đậm hơn mây trời và có lúc gần như tím sẫm. Mới đó mà đã sáu ngày rồi kể từ
buổi chiều tôi từ giã cha mẹ để ra đi. Mẹ tôi đã không nén được tiếng khóc và
gần như muốn xỉu, cố nuốt ngược nước mắt vào lòng, còn ba tôi chỉ lẳng lặng thở
dài nhìn con và cháu dắt xe đạp ra khỏi cổng. Và cũng từ lúc chiếc xe lam dừng
lại đón khách ở cạnh Tháp Bà rồi đưa chúng tôi đi về hướng Ninh Hòa, mãi cho đến khi chiếc
xe thắng gấp lại và một giọng nói đàn ông thật nhỏ nhưng sắc lạnh trong đêm tối
thùi lùi làm tôi nổi da gà:
-Đ.M.! Đến nơi rồi không chịu xuống cho lẹ,
bộ chờ bị bắt hết cả đám hả?
Thế là nhào xuống xe. Xe ngừng bên con dốc,
nhìn xuống dưới chẳng thấy gì, nhưng mặc kệ, mạnh ai nấy tuột, xuống được chân
dốc rồi, trong khi ngồi trốn tránh công an, nhìn ngược 1ên đường cái, gặp lúc
có chiếc xe đò chạy ngang qua le lói ánh đèn mới thấy mọi người quá can đảm,
vượt biết bao nhiêu chướng ngại
vật: cành cây, gai nhọn, đá sỏi v.v.v, nhưng không thấy người nào kêu đau, ngay
cả thằng cháu tôi vừa 1ên sáu tuổi. Rồi đoàn người phải di chuyển thật lặng lẽ
từng bước, từng bước đạp đúng theo dấu chân người dẫn đường lội qua hết một đám
sình lầy cao đến tận đầu gối để đi về hướng bờ đầm, và tiếp tục ngồi thuyền thúng, thuyền con để họ chèo đi gần suốt cả
đêm mới tới được một đảo hoang và ở đó chờ ghe lớn tới. Chờ hơn hai ngày trên
đảo nhưng tôi có cảm tưởng dài hơn hai tháng. Sự hồi hộp, lo lắng, nôn nao, sợ
sệt, hình như mọi từ ngữ để diễn tả tâm trạng bất ổn của con người đều có ở
trong tôi lúc đó. Một tiếng động cỏn con trên cành cây cũng làm tôi giật thót
người, tiếng máy bay nghe từ đâu đó cũng cứ tưởng nó đang bay dò tìm người vượt
biên, rồi đi báo cho công an
bắt mình về tra tấn.
Cuối cùng thì chiếc ghe mọi người mong đợi đã xuất hiện.
Đêm tối mò, nước biển lạnh ngắt nhưng ai cũng cố lội để được leo lên ghe. Ồ, mà
sao người ở đâu lại đông thế ? Đám người đi trốn của chúng tôi hơn ba chục
mà sao giờ này đông thật là đông vậy. Người ta còn la hét, kêu réo, rủ rê nhau
bỏ ghe con để leo lên ghe lớn. À, thì ra dân làng ở đó biết chỗ này có chuyến
ra khơi nên kéo ra đi cho có bạn. Đi vượt biên mà họ cứ ngỡ là một chuyến đi
chơi xa (?). Bởi vậy mà ghe đầy ắp, tôi kiếm được một chỗ ngồi trên khoang gần
phòng máy, bỏ tay ra khỏi be ghe là đụng nước. “Đi kiểu này chắc chết, ở trong
đầm thì không sao, chứ ra ngoài có một đợt sóng nhỏ là chìm liền, ghe quá sức
nặng, chắc đi không nổi đâu !”. Tiếng ai đó phàn nàn, mọi người xôn xao
bàn tán:
-Như
vậy làm sao đi được, đi chết là cái chắc!
Tôi
cũng âu lo như mọi người. Nhưng ai cũng muốn đi, có ai chịu leo xuống để cho
ghe nhẹ bớt? Tôi lại đưa mắt nhìn đám người ồn ào trên ghe, có ba người thanh
niên làm tôi chú ý. Họ mang súng trên người và đang từ mui ghe bước qua đám
người nằm ngồi ngổn ngang đi về hướng phòng máy. Họ leo vào trong đó hồi lâu,
tôi lại tò mò nhìn theo và cố ý lắng tai nghe họ nói chuyện nhưng nào có nghe
được gì vì cái đám đàn bà, con nít quanh tôi đang cãi nhau vì một chỗ ... nằm.
Tôi ngồi sát vào tấm ván gỗ phòng máy, ôm trọn thằng cháu vào lòng, nhường một
chỗ nhỏ cho thằng em trai, nhưng càng lúc nỗi lo sợ càng ùn ùn kéo tới.
-Đi
không được, họ trở vào chắc mình chết mất! có người lên tiếng than phiền.
Chiếc
ghe vẫn trôi nhè nhẹ trên mặt nước và đến gần một điểm sáng. “Cướp ghe!” Tiếng
ai đó vừa phát ra âm thanh ngắn gọn như một lệnh truyền nghe sao rờn rợn.
-“Tội
chết đi, ghe người ta làm ăn mà!” Tiếng phàn nàn chưa dứt đã bị tiếng nói ban
nãy át đi.
-Ai
nói đó có im mồm đi không? Bộ muốn chết hết cả đám hả? Ghe là ghe quốc doanh,
ghe nhà nước chứ ghe gì của họ!
Im lặng
trong chốc lát, chợt điểm sáng mất tiêu. Có lẽ chiếc ghe kia đã đoán được tai
nạn sắp xảy đến cho mình nên tắt đèn chạy trốn? Tôi nghĩ thầm như vậy nhưng đôi
mắt cứ mở trừng trừng nhìn xuyên vào màn đêm, một nỗi lo sợ khác lại ùn kéo
đến. Nghĩ đến tiếng cướp ghe của ai đó vừa rồi tôi lại rùng mình. “Vì tìm con
đường sống mình cũng đồng lõa với tội phạm?” Lý trí, lương tâm, bản năng sinh
tồn đang dằn co dữ dội trong tôi, dù tôi không là kẻ khởi xướng. “Nếu họ cướp
ghe thật, những người dân chài lưới kia rồi sẽ ra sao? Cuộc sống bình thường
vốn dĩ đã quá đói khổ rồi, giờ lại mất phương tiện làm ăn...”
Lại
một điểm sáng le lói phía xa xa, chiếc ghe chạy chầm chậm về hướng đó. Như một
phim trinh thám. Chiếc ghe tôi ngồi bèn tắt máy, cặp sát vào ghe lạ và ba người
mang súng khi nãy nhảy phóc sang:
-Có
dầu không cho xin một ít đi coi?
Không nghe tiếng trả lời. “Rắc,
rắc, rắc”. Nòng súng lên đạn nghe lạnh người. “Xạch, xạch, xạch”, ba cái thuyền
thúng đen thui vừa được liệng xuống nổi
1ềnh bềnh trên mặt biển đen ngòm.
-Đi không? Đi thì ở lại, không thì nhảy xuống nước lẹ 1ên!
Có
tiếng nói gì đó tôi không nghe rõ, chỉ thấy ba bóng người phóng xuống nước ùm
ùm. Có tiếng la vói:
-Tội
quá mấy ông ơi! Ghe tụi tui làm ăn mà, mấy ông lấy đi rồi lấy gì tụi tui đánh
cá để nuôi vợ con?
Tiếng máy ghe nổ làm át tiếng la bên
dưới. Thời gian trôi không quá năm phút. Tôi chợt thấy mắt mình cay cay, rùng
mình một cái vì lạnh (?). Rồi tôi nghe thấy có tiếng nói từ cõi xa xăm vọng về
càng lúc càng rõ:
-Phải
có thêm ghe đó cứu lấy bao nhiêu mạng người trên chiếc ghe này. Đừng lo lắng
cho họ, rồi họ sẽ được cứu. Đừng buồn nữa!
Và rồi
những người có súng đi lùa người sang bên chiếc ghe vừa cướp được:
-Tất cả những người đàn ông con trai đều phải nhảy sang bớt
bên kia.
Một người đàn ông truyền 1ệnh.
Nhưng mọi người trên ghe như còn đang bàng hoàng, sửng sốt nên vẫn
ngồi bất động. Sau một màn hò hét, dọa nạt liệng xuống biển nên tất cả những
người có thể nhảy được đều đã nhảy sang ghe mới kể cả người em trai tôi và
người dẫn mối. Hai chiếc ghe chạy liền nhau khởi đầu một chuyến vượt biển.
Tiếng máy ghe nổ xành xạch và chiếc
ghe vẫn lướt nhẹ sóng đi về giữa lòng đại dương xanh thẳm. Một chuyến viễn du
có phải? Không! Đoàn người đang mạo hiểm đi tìm sự sống bên trong nỗi chết mà!
Đâu phải ra khơi để biết mặt trùng dương, biết trời bao la như tâm hồn của
người nhạc sĩ trong nhạc phẩm Viễn du. Biết gì đây với sự trốn chui trốn nhủi,
với nỗi lo âu, nào công an biên phòng, nào hải tặc, ghe chết máy, đói, khát và
những trận ói mửa thấu tới mật xanh, mật vàng, với cái nóng cháy da ban ngày và
sự lạnh buốt ban đêm. Chung quanh tôi những khuôn mặt ngày đầu xa lạ giờ cũng
đã quen, dù sao thì một đám đàn bà, con gái không thôi nên dễ bề bắt chuyện làm
quen, nhưng chỗ ngồi ai nấy giữ, ai dám đi tới đi lui trên chiếc ghe con chòng
chành trôi giữa biển khơi? Ngoại trừ hai chú phụ lái kiêm thêm công việc phát
nước và cái ông tên Thân kia, chắc ông ta tuổi con Khỉ, không những có cái bản
mặt loắt choắt thật khó nhìn, còn bị té thùng đinh nữa (mặt rỗ) nên càng tăng
thêm vẻ... xấu, đã vậy ông ta thỉnh thoảng ló mặt ra khỏi phòng máy hò hét
người này, kẻ nọ, nếu họ muốn xin thêm miếng nước uống. Không biết ông ta làm
chức gì trên chiếc ghe con này, nhưng có một điều chắc chắn tôi biết vì qua
giọng nói, chính ông ta là người phát ra lệnh cướp ghe từ cái đêm hôm ấy. Và
bữa nay, cũng chính ông ta ban lệnh: “Nước uống gần hết, mỗi người chỉ được
uống hai lần trong ngày, mỗi lần một nắp bi đông thôi!”. Có còn hơn không. Chỉ
còn độ vài ba ngày nữa là sẽ đến đất
Phi. Ông ta bảo thế.
Nắng dịu dần, chiều đã xuống, ráng
đỏ của mặt trời như trái banh tròn khổng lồ nhìn đâu cũng thấy, bỗng chốc lẩn
khuất ở xa tít tận đâu đâu, nhường chỗ cho bóng đêm lù lù đi tới. Khí trời mát
hẳn lại với những cơn gió nhẹ lướt qua. Chiếc ghe con vẫn lướt đều trên biển
nước mênh mông vô tận, mặt biển phẳng lặng như mặt hồ lúc đứng gió, phản ảnh
lên một màu tím sẫm loang loáng như gương, mờ mờ ảo ảo trong không gian, tôi
tưởng mình có thể nhoài người ra khỏi be ghe để đếm xem có bao nhiêu con cá heo
đang đùa giỡn rượt nhau bên dưới, đàn cá đuối đang lượn lờ bơi lội cạnh chiếc
ghe, và cả những con cá chuồn - tôi đoán thế, với cái mỏ nhọn hoắc dài cả
thước, đang lội lờ đờ, bỗng phóng mình bay vút lên thật cao rồi đánh ùm xuống
nước, không một tí bọt nước văng lên. Tôi lại nghĩ dại, lỡ có kẻ nào bị nó
phóng trúng chắc bị lòi ruột, tiêu đời. Và còn bao nhiêu loài cá nữa đang tự do
bơi lội, đùa giỡn giữa biển khơi? Chúng mày có biết chăng những con người khốn
khổ đã phải từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, từ bỏ cả cha mẹ, người thân yêu để ra
đi, dù biết rằng cái chết đến gần hơn sự sống nhưng vẫn phải đi vì hai chữ Tự Do, vì không
muốn làm nô lệ cho loài quỷ đỏ.
“Trăng lên cao muôn hoa sóng giăng đầy,
tàu lắc lư làm sao viết thư tình, trăng đại dương không đủ viết thư đêm...”
Tiếng hát của Nam
ở đằng trước mũi ghe đã gây cho tôi sự chú ý, dù giọng hát có trật tông, sai
nhịp vài chỗ. Ồ, sao đêm nay tự dưng cậu ta lại chọn những bài hát hợp tình hợp
cảnh quá vậy? Mấy đêm rồi trời yên biển lặng, chuyến hành trình của chúng tôi
đi không gặp một trở ngại lớn nào, nên hầu như mọi người quên đi chuyện ghe
tàu, và ai ai cũng lấy làm “phấn khởi” dệt nhiều mơ ước cho riêng mình, trong
đó có Nam.
Cậu
ta vui vẻ nên mỗi lúc đêm xuống trăng lên, gió vờn nhè nhẹ cũng là lúc cậu ta
ngồi trước mũi ghe hát hết bài này sang bài khác, có lúc trật đầu lộn đuôi,
nhưng đám thính giả bắt đắc dĩ cứ vỗ tay đôm đốp làm cậu ta khoái chí hát hoài
cho đến khi… mệt không thèm hát nữa.
Nhưng
những bài hát của những đêm qua không gây nhiều xúc cảm trong tôi như đêm nay.
Kể ra thì Nam cũng nhớ dai thật, cậu biết được rất nhiều bài hát, và tôi cũng
biết nhiều về Nam vì cậu ta
thường ngồi sà xuống cạnh chỗ tôi mở bầu tâm sự:
-Chị
biết hồi trước em làm nghề gì không? Đi bụi đời đó! Hì! Hì! Hồi đó nhỏ ngu bỏ
mẹ, cứ tưởng thoát ra được khỏi nhà là tự do làm theo ý muốn, đến chừng xài hết
tiền, tiền ăn cắp của ba má đó, bị đói, úi chu choa cái đói nó hành mới ngất
ngư luôn, hết tiền rồi thì đâu có bạn nào chịu chứa, thế là đói quá phải đi
kiếm ăn, bạ đâu kiếm đó, bất cứ thứ gì, tối lại ngủ ở vỉa hè hay chui trong sạp
chợ. Chật! Nhiều bữa nó lạnh rút xương nhưng đâu dám dìa lại nhà, sợ ông già
ổng đánh. Thế là lỡ, cho lỡ luôn, bèn xin đi nhập bọn tụi nó, rồi được huấn
luyện để làm ăn. Ồ cái gì chứ ba cái thứ đồng hồ, giây chuyền v.v.v., em chỉ
cần đưa tay bấm một cái là vật đó đã nằm gọn trong tay em rồi, hì hì, nhưng lâu
lâu cũng bị cớm chụp, lúc đó thì ráng mà lãnh đòn. Nhưng sau đó tụi nó rủ em
vào Cam Ranh, đổi nghề làm ăn. Chị biết
em làm nghề gì không? Đổi nước cho mấy chỉ! Nè, chị đừng có nhăn mặt
được không. Đó là em kể cho chị nghe chuyện hồi nhỏ em ngu như vậy mà. À! Mà
chị phải biết là hồi đó em làm nhiều tiền lắm à nghe. Cái bọn Mỹ to đầu mà ngu
bỏ mẹ đi, nhất là mấy tên Mỹ Hải Quân, mình đã... móc túi nó gần hết tiền mà nó
còn cho mình tiền thưởng nữa chứ. Hì, hì, bởi vậy nên tụi em rất thích Mỹ, mà
bị bọn CS vô chiếm thì làm sao
mà ở được. Hồi đó đành phải về
nhà đi làm rẫy nhưng cứ vái trời Mỹ trở lại, dù phải đi cầm súng quánh tụi VC
em cũng ham nữa, còn đỡ hơn là phải đi nghĩa vụ quân sự qua bên Miên chết uổng
mạng. Rồi có bữa kia, em gặp thằng bạn nó rủ em: “muốn vô phục quốc không? có tổ
chức lớn lắm, có người chỉ huy để đánh lại bọn CS, chừng nào bọn CS chết hết
thì Mỹ mới trở lại lận!” Em mừng quá theo liền, nhưng không có vô núi ở, chỉ ở
loanh quanh trong làng thôi, vậy mà tụi em cũng cứa cổ được mấy thằng công an hống hách, nhưng xui
quá, bị tụi nó đi lùng tóm được em. Ồ, em bị tụi nó tẩn cho mấy trận chết lên
chết xuống, bắt em nhận tội phản động nhưng em đâu có nhận, tại có mình em bị
bắt thôi nên chúng đâu có đem ra tòa xử, vậy rồi nó bắt em giam tùm lum trại
hết, cuối cùng nó mới đưa em về Trần Phú, em biết mình gần được thả nên mới rủ
anh Hùng, anh Khương ra ngoài tổ chức chuyến đi đó chớ...”
Lỗ tai tôi đã quen với những mẫu
chuyện của Nam, chỉ ừ hữ cho qua câu chuyện, nhưng đêm nay tôi thật sự muốn
nghe Nam hát, và ở đằng trước mũi ghe kia Nam như đang thả hồn trôi theo những
lời hát trữ tình, những lời “Tâm Sự của loài Chim Biển .. lênh đênh đi giữa muôn trùng, nhiều khi chợt anh nhớ em,
chiều nay sao trên trời đi vắng, gió nhiều nhưng mây buồn không bay...”
từng chữ, từng lời trong bài hát đã gieo vào lòng tôi một nỗi buồn man
mác, cứ như là tác giả đã thấu hiểu được tâm sự
riêng tôi. Tự nhiên, tôi nghĩ đến An thật nhiều, tôi còn lại gì nơi anh?
Ngay cả những lời thư anh viết từ những chuyến hải hành ngày nào (anh cũng lênh
đênh đi giữa muôn trùng như tôi đêm nay?) mà tôi đã nâng niu cất giữ như một
báu vật, cũng đã theo làn khói tan loãng vào không gian khi tôi cố tình đốt hết
để chuẩn bị ra đi. Tôi thở dài nhắm mắt, và hồn tôi lại lảng đảng xuôi về những
ngày tháng xa xăm.
|
Biển nha trang |
Chú Nhân vò đầu tôi nói như năn
nỉ:
-Đi
đi mà! Có Dương đi, Thanh nó mới chịu đi, giúp chú kỳ này rồi mai mốt muốn gì
cũng được hết!
-Chú hứa thiệt
há! Chú nuốt lời là có chuyện à nha.
Tôi bắt bí thêm ông chú với giọng
nói kéo dài lê thê:
-Thiệt
tình cháu hổng muốn đi chút nào hết á!
-Chú
biết mà! Kỳ này coi như cháu … hy sinh vì chú có được không?
-Để
cháu tính lại xem. Tôi vẫn còn làm nư với ông chú .
-Chỉ
còn một tuần nữa thôi, chú phải đưa
thiệp mời sang nhà Thanh nữa! Nói “đi” đi cho chú nhờ coi cô nhỏ!
Tôi
cười hì hì, chú Nhân đã biết ý nên mừng quýnh, dắt xe chạy ra cổng. “Phải đi
thôi!” Nhìn thấy ông chú hí hửng thế kia tôi bỗng thấy mình có giá dữ! Nhỏ
Thanh đã tuyên bố với tôi từ bữa trước, khi biết chú Nhân có ý định mời nó đi
“ball” Hải Quân kỳ này:
-Dương
không đi là mình không đi đâu, vô mấy chỗ đó đông đảo ồn ào Thanh ngán lắm!
Nhỏ Thanh ngán chứ tôi đâu có ngán.
Tôi không đi là tại vì tôi không thích nhìn mấy ông lính Hải Quân chút nào hết,
lại càng không muốn làm quen, nhất là mấy ông Lính quân trường. Tôi chán cái
cảnh mỗi cuối tuần, chàng trong bộ lễ phục trắng tinh, mũ, giày láng cón, đeo
giây tòn teng, đi giung giăng giung giẻ cùng nàng (nàng ăn mặc phải đẹp rồi)
trên hè phố Độc Lập rồi ghé vào rạp xinê, rồi đưa nhau vào quán uống nước giải
khát, có bữa rộng thì giờ hơn thì đưa nhau đi chơi xa đâu đó như Hòn Chồng,
Tháp Bà để ngắm cảnh trời mây nước bao la, đến chiều về, nàng lại tiễn chàng ra
tận bến xe lam, đưa chàng lên xe trở về quân trường cạnh nhà đèn CHỤT.
Sự
hiểu biết về họ rồi cũng chỉ ngần ấy thôi, khi ra trường rồi thì họ đi phương
trời nào làm sao biết được, có
chàng còn ca bài “xê dô, xê ra” không chút luyến lưu, nếu còn một chút gì để
nhớ thì họ bèn an ủi: Tàu dzìa bến
anh hẹn mình dạo phố...!
Đâu có dễ vậy được. Cái gì chứ quanh năm suốt tháng cứ phải tính xem khi nào
chàng về bến để chuẩn bị đón rước là không có tôi trong đó rồi à!
Tôi lại nhớ chuyện Thu Thảo kể cho nghe về người yêu của
chị Thuận làm tôi cứ tức anh ách: “Anh Chi, vị hôn phu của chị Thuận, khi anh
ra trường phải đi thăm viếng kinh rạch đâu tận trong Nam. Bữa kia chị Thuận lót
tót khăn gói vô thăm, tay xách nách mang nhiều quà không kể xiết. Bến Đồng Tâm,
nơi con tàu anh Chi cập bến chị tìm cũng dễ dàng. Nhưng khi đến nơi, thay vì
chị đem đến cho anh sự ngạc nhiên thích thú thì... trời đất ơi! mắt chị hoa
lên, trời đất quay cuồng, chân tay chị bủn rủn, người chị mềm èo đứng không
muốn vững nữa. Trước mắt chị, trên cầu tàu, người yêu của chị đang ôm eo ếch một nàng (tàu dzìa bến
anh hẹn nàng dạo phố là cái chắc?). Họ vừa đi vào bờ vừa ghé tai thì thầm to
nhỏ, nụ cười tình của họ làm chị điếng tim, đến khi chị quăng hết quà cáp, giỏ xách ù té chạy, họ
mới phát giác ra sự hiện hữu của chị. Rồi chị Thuận từ hôn, tuyên bố không thèm
chờ..tàu về bến nữa”.
Ai dám bào mình sẵn sàng chia xẻ tình yêu cho
kẻ khác? Càng yêu nhiều, càng ghen bạo và càng lo sợ dữ. Cứ tưởng tượng mỗi một
bến tàu người yêu mình cập đến là có cảnh tay chinh nhân đan năm ngón tay mềm là lạnh gáy rồi. Ơ! Mà sao
tôi lại vô duyên đến thế nhỉ? Tự nhiên lại đi lo nghĩ ba cái chuyện viễn vông, xa vời. Bộ cứ đi vào
trường Hải Quân là phải yêu lính Hải Quân sao? Cứ đi chen lấn, nhìn đường biển
Duy Tân thơ mộng về đêm dập dìu tài tử giai nhân xuôi ngược thì đã sao nào.
-Xin
lỗi! Tôi được hân hạnh mời cô bản này chứ?
Hình
như có tiếng người nói bên tai tôi. Vì mãi nghe Giao Linh với “Sao Rơi Trên Biển” nên tôi đâu để ý đến ai. Quay mặt lại thấy một ông
bận đồ trắng đã gắn “quai chảo” rồi. Chắc là khóa đàn anh của chú Nhân?
-Rất
tiếc tôi không biết! Mắt tôi nhìn thẳng vào anh ta.
Ngạc nhiên trong khóe mắt, người
lính nhìn lại tôi nhếch môi, lắc đầu:
-Tôi không tin là cô không biết nhảy, hầu hết các cô vào đây
đều có đôi chân rất dẻo mà!
Bị
chạm tự ái, tôi trợn mắt nhìn lại. A! anh chàng này dám quơ đủa cả nắm rồi đây,
bộ hắn
tưởng tất cả con gái ngồi xe lam vào đây đều là dân ngứa chân muốn... nhảy? Lầm
to rồi ông ạ. Tôi phản pháo vì tưng tức:
-Ai
nói với ông tôi không biết nhảy?
-Thì
cô vừa nói!
-Tôi nói tôi không biết là không biết đi theo tiếng nhạc
tiếng trống kia kìa, và tôi cũng không thích ôm xà nẹo như họ, chứ còn nhảy
đầm, nhảy mương, nhảy lò cò, nhảy dây, nhảy cao, nhảy xa v.v.v. sao tôi không
biết chứ?
Có lẽ cái vênh mặt và câu trả lời của tôi
làm anh chàng thích thú, anh ta bèn ngồi vào chỗ ghế trống và quên luôn mục
nhảy ở đàng kia.
-Cô
nói chuyện vui quá. Tôi rất muốn được hầu chuyện với cô. Tôi xin tự giới thiệu.
Tôi tên An, Lê Bình An, khóa…
Tôi nhìn thẳng vào mắt An, vì lúc
này nhạc ngưng, đèn sáng. Hứ! Dương Ngưu, Bắc Giải, Hổ Cáp… thứ gì gì tôi đâu
cần biết, bộ muốn làm quen hả? Chà! đã giới thiệu tên rồi chắc sắp tới cái màn
điều tra lý lịch tôi đây.
-Xin
lỗi, người như cô chắc tên phải đẹp?
-Thùy
Dương! Muốn biết địa chỉ nữa không?Tôi hỏi móc.
-Nếu
cô cho phép tôi xin được đến thăm cô vào mỗi cuối tuần và xin cô làm hướng đạo
cho.
Tôi cười thầm trong bụng, muốn nói với anh ta:
“Cái màn này xưa như trái đất rồi ông ơi! Người ta đã đi lên tận cung trăng rồi...”
Tôi muốn phá anh ta, định cho anh ta địa chỉ nhà…Chùa Linh Thứu, nhưng, lại chữ
nhưng, càng nhìn anh ta chờ đợi, tôi lại không thể nói láo được câu nào. Anh
chàng lại tán tiếp:
-Mới
thoạt nhìn cô, tôi đã đoán biết cô phải là người có nhiều liên hệ đến... biển
cả!
-Bộ
ông có học nghề bói toán nữa sao?
-Chưa
học, nhưng sẽ học, học xong rồi chỉ bói cho một người thôi.
-Chà,
người nào đó chắc phải có số tốt dữ há?
-Cô
đó!
-Tôi!
Ông lầm rồi, tôi đâu có tin bói toán “bói ra ma quét nhà ra rác mà”!
-Nhưng
cô cứ tin lời tôi đi, chuyện gì còn sai chứ chuyện nợ duyên là phải có số mạng
à nha! Mà đã có số thì phải có người xem số mạng mình sẽ gặp ai. Biết đâu vì
tôi với cô có số trời định nên hôm nay ông Trời xui khiến tôi lại chỗ này để
được gặp cô...
Tôi lại nhìn sững anh chàng. Chưa
chi mà đã tán sát rạt, không biết tôi là người thứ mấy có số với anh chàng đây?
Với “khuôn mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua” thêm đôi mắt sáng và nhứt là nụ
cười. Ồ nụ cười này tôi đã gặp ở đâu rồi nhỉ? Tôi thích nụ cười này lắm mà! Sực
nhớ ra tôi muốn bật cười thành tiếng, nụ cười anh ta giống như của tài tử phim
kiếm hiệp Tàu Khương Đại Vệ! Cũng tại tôi mê đi xem phim quyền cước nên mê luôn
nụ cười? Nhưng nhìn lại anh chàng Lính Hải Quân, tôi muốn mời anh ta đi chỗ
khác chơi.
Nhưng anh chàng cứ như cục sắt và
tôi là thỏi nam châm. Hình như suốt buổi tối hôm đó An đã tiếp tôi thật chu đáo
cho đến khi chú Nhân đưa tôi và nhỏ Thanh lên xe lam trở về nhà.
Không cần hỏi địa chỉ, An cũng đến
được nhà tôi. Chú Nhân, ông chú Út của tôi đã đưa đường dẫn lối cho ông niên
trưởng đến thăm nhà. Và An đã
là “khách thường trực” của cả gia đình tôi, ngoại trừ tôi. Đã bảo tôi không
thích lính Hải Quân mà, cũng như tôi đã “phản đối” khi chú Nhân đầu quân vào
ngành lính biển, nhưng chú vẫn vào vì chú… yêu mộng hải hồ (cải lương quá!) hay
tại nhỏ Thanh thích nhìn hoa biển? Bởi vậy mỗi lần An đến nhà tôi là tôi tìm
cách đi chỗ khác chơi. Nhưng An đã không hề nản chí. Thứ bảy, rồi Chủ Nhật có
khi một tuần hai lần An đến rồi lại đi. Có lúc bất chợt tôi nhìn thấy “nụ cười
Khương Đại Vệ” đưa mắt nhìn tôi rất thiết tha, tình tứ. An yêu tôi thật sự rồi
chăng? Nếu không tại sao An phải “o bế” chú Nhân và chìu đám con trai nhà tôi
dữ vậy? Cho đến một sáng thứ bảy kia An không đến, tôi tự dưng thấy bồn chồn
hồi hộp, ngồi đứng không yên, cứ đi ra rồi đi vào ngóng tới ngó lui nên bị chú
Nhân về bất ngờ bắt gặp. Chú ấn tôi ngồi xuống ghế rồi nhỏ nhẹ nói bên tai tôi:
-Tại chú thấy Dương thờ ơ với thằng An nên chú không tiện
nói. An yêu cháu dữ lắm rồi đó, trong
đó đứa nào cũng biết An đang mắc bệnh tương tư. Bữa hôm trước không hiểu tên
nào chơi khăm vẽ hình thằng An đang ôm hôn người con gái, có phụ đề tên cháu, dĩ
nhiên là không giống rồi vì tên đó chưa gặp cháu là cái chắc, rồi nó dán ngay
trên đầu giường thằng An, chẳng may bị Sĩ quan Kỷ luật bắt gặp. Vậy mà thằng An
đứng ra nhận hình đó nó vẽ. Nó còn tâm sự với chú: Nó hãnh diện vì được yêu
cháu.
Làm sao tôi trả lời được “tại sao
tôi yêu An?” chỉ biết rằng giọng nói, nụ cười, hình bóng của An đã luôn luôn ẩn
hiện trước mắt tôi, những giờ phút có An bên cạnh là lúc tôi vui, tôi yêu đời
nhất. Vắng An suốt một tuần lễ là lúc tôi bồn chồn, nôn nóng mong cho ngày
chóng đi qua. Gần tới ngày An ra trường là khoảng thời gian tôi nôn nao, hồi
hộp, buồn vui lẫn lộn.
-Anh
về đơn vị rồi lo xong đâu đó, sẽ về thưa cùng Ba Má đi hỏi cưới Dương, “Cưới vợ
phải cưới liền tay” phải không cô bé?. An ưa dí ngón tay trỏ vào mũi tôi như một cử
chỉ trìu mến...
Thanh dựng xe đạp ngoài cổng
rào, chạy a lại chỗ tôi đang đứng tưới nước cho đám hoa huệ vừa nhú những búp
non, vừa nói vừa thở dốc:
-Ê
Dương! Tên Lê Bất Ổn hôm qua có ra không?
-Không!
Có chuyện gì mà nói không kịp thở vậy? Còn bày đặt đổi tên họ của người ta nữa
chứ! Tôi
lại cà rỡn hỏi tiếp trong khi Thanh vò lỗ tai.
-Bộ
mới đua xe đạp nước rút về hả?
-Thanh
đã nói là bất ổn mà, không biết Dương có đủ bình tĩnh đi với Thanh không?
-Mà
đi đâu mới được chứ? Làm gì úp úp, mở mở vậy?
-Thanh đi xuống chợ sớm, lúc về trên đường thì thấy hắn!
-Thấy ai? Nói vậy có trời mà hiểu!
-Thì tên Bình An, bất ổn đó chứ còn ai vào đây nữa, mà hắn
có nói cho Dương biết tại sao tuần này hắn không ra nhà không?
-Ảnh
có nhắn với anh Tín là ảnh bận trực dùm cho người bạn nào đó, có thể hôm nay
anh ấy ra nhưng chưa biết lúc nào, ảnh dặn Dương phải ở nhà chờ ảnh!
-Xí! Trực gì mà trực, lại còn gạt người ta ở nhà nữa! Rồi Thanh lên giọng tiếp.
-Hắn ra
phố rồi đó, nhưng hắn sẽ không đến đây đâu, đừng ngồi đó mà chờ!
-Bộ Thanh
gặp ảnh thật hả? Găp ở đâu? Tôi hỏi dồn.
-Dưới phố!
Nếu muốn chứng kiến tận mắt thì lẹ lẹ lên đi theo Thanh.
Thanh nói
cái gì thật tình tôi đâu có hiểu hết, nhưng tôi vẫn chạy vào nhà thay quần áo
thật lẹ rồi đi theo bạn, có lẽ vì tò mò thì đúng hơn.
Mỗi đứa
một chiếc xe đạp, tôi đạp theo Thanh gần hụt hơi mới đến được phố Độc Lập,
những giọt mồ hôi đã xuất hiện trên trán, hai bên thái dương dù rằng mới
tảng sáng, không khí dịu nhẹ, lại có gió hiu hiu. Hai
bên đường phố, mấy gian hàng đã mở toang cửa, đèn đuốc bên trong còn sáng
trưng, nhưng trên vỉa hè, từng tốp; từng tốp sinh viên sĩ quan nào Không Quân,
nào Hải Quân, áo trắng chen lẫn áo vàng đang ngược xuôi 1ên xuống. Thanh bảo
tôi đạp xe rẽ về hướng Phan Bội Châu và dừng lại bên hông một tiệm sách. Thanh
đưa mắt hất mặt bảo tôi hãy nhìn vào bên trong tiệm.
-Hả? Cái
gì vậy?
Tôi giật nẩy mình, miệng há hốc, mắt mở thật
lớn nhìn trừng trừng vào trong tiệm. Trước mắt tôi, bên cái tủ kính đựng đầy
những vật kỷ niệm kia là chàng sinh viên sĩ quan Hải Quân của tôi. Chàng đứng
cạnh một người con gái nhỏ thó, đang chỉ chỏ bàn tán gì đó, rồi cô ta cầm lấy
gói giấy từ tay người bán hàng, chàng trả tiền, hai người cười với nhau, cô ta
đưa bàn tay cầm lấy tay chàng giục giục mấy cái, chàng cười gật đầu rồi cả hai
nắm tay nhau đi ra khỏi tiệm. Cô ta mặt mũi ra làm sao nhỉ? Tôi đâu còn đủ bình
tĩnh để mà quan sát, mắt tôi hình như bị ai lấy tấm màn che lại, chân tay tôi
cứng ngắt, ngực tôi nhói đau, tôi muốn ù té chạy, nhưng vướng chiếc xe đạp ngã
cái rầm, và tôi thấy hình như An quay lại, phản ứng chàng ra sao làm sao tôi
biết được? Vì Thanh đã lẹ làng dựng lại chiếc xe đạp cho tôi và tôi chỉ có biết
ngồi lên yên xe mà đạp mặc cho những giọt nước mắt từ từ làm hoen ướt bờ môi.
-An nó nói với chú, nó không hề yêu người con gái đó, nó
chỉ coi cô ấy như người em gái vì hai gia đình quen biết đã từ lâu, mặc dù ba
má nó đã thúc hối nó bao nhiêu lần nhưng nó vẫn có lý do để từ chối cưới cô ấy.
Đến khi gặp cháu, nó thật lòng yêu cháu và nó định khi ra trường rồi sẽ về xin
phép Ba má nó đi hỏi cưới cháu. Chú nghĩ đó là những lời rất thật của nó. Nó
buồn lắm, nó mong cháu cho nó gặp mặt một lần, đừng lẫn tránh nó nữa. Chỉ còn
một tuần lễ nữa là nó mãn khóa rồi...
Chú Nhân còn nói nhiều lắm nhưng tôi nghe tai
nọ bỏ tai kia. Tôi có tự ái của người con gái mới lớn và tôi nghĩ đến cô gái
kia. Cô ta có tội gì ngoài tội yêu An nên đã lặn lội đường xa ra đến tận nơi
này thăm viếng. Tôi phải trả An về cho cô ấy, dù tôi có phải buồn đến nẫu người
ra.
Tôi không có tên trên bảng vàng ở
cuối kỳ thi để được nôn nao, hồi hộp khăn gói về thủ đô ghi tên vào các phân
khoa đại học như chúng bạn. Tôi phải ngồi nhà nhìn ngày tháng trôi mà gậm nhấm
nỗi buồn (dù rằng tôi tự chuốc lấy).
-Cháu muốn
đi làm!
Tôi nài nỉ chú Hảo mãi, nên chú bèn “gửi gấm”
tôi vào làm cô Ký trong Ty Xã Hội. Tôi muốn bận rộn với bất cứ công việc gì để tim tôi không có thì giờ thổn thúc,
trí tôi không mãi vướng bận hình ảnh người tôi yêu mà tôi vừa cố tình đánh mất.
Dù gắng vui nhưng chắc cái bản mặt tôi cứ u sầu nên chú Vĩnh có cớ đến gần an
ủi.
Là bạn của
chú Hảo, cùng ra trường một lượt, giờ chú Vĩnh đã là Thanh Tra vùng, làm xếp
trên cả xếp của tôi nên chú có
quyền hành dữ lắm, hầu như chú muốn gì có nấy, ngoại trừ tôi. Làm sao tôi có
thể “cảm” được chú Vĩnh khi biết chú “độc thân nhưng không vui tính”. Chú giống
như ông cụ (non) dù mới ngoài ba mươi tuổi, lại thêm cái kính cận với hai tròng
kính dày như hai cái… đít chai. Sau giờ làm việc thường thì chú chỉ đọc sách,
mà sách của chú mỗi khi tôi nhìn vào cứ muốn nổ đom đóm mắt, chẳng có gì hấp
dẫn cho tôi nhớ tên những quyển sách dày cộm ấy. Chú Vĩnh cũng không thể đưa tôi đi xem một trận đá banh sôi
nổi vì chú không cần biết cầu thủ nào ở hàng tiền đạo, hậu vệ hay trung phong?
Chú là con nhà giàu, từ nhỏ đã học trường Tây, nên chú đâu có những tháng ngày
tuổi nhỏ mặc quần xà lỏn chạy đá banh trên vỉa hè cùng chúng bạn. Vậy mà chú
lại âm thầm yêu cô cháu gái của bạn. Tôi bắt đầu lánh chú Vĩnh khi chú Hảo cho
tôi hay:
-Thằng
Vĩnh nó muốn tính chuyện lâu dài với cháu, cháu nghĩ sao?
Nghĩ sao
nữa! Nghỉ làm chỗ chú ấy chứ nghĩ sao! Thế là tôi bèn từ giã cái Ty Xã Hội mà
không chút luyến lưu, nếu thỉnh thoảng chú Vĩnh có đến nhà tôi chơi thì cũng
không có nhiều cơ hội để bắt tôi gọi chú bằng… Anh!
Ba má tôi lại lo sợ
tôi phải làm “gái già, gõ ra bột” như lời bọn nhóc Quân vẫn chọc chị Ái - người
chị bà con, nên ông bà bắt tôi phải lấy chồng và chàng rể tương lai là anh
Nhật.
-“Dù gì ba
má nó cũng là chỗ thân tình với nhà mình, nên chuyện làm dâu má nghĩ con không
còn lo nữa. Vả lại, nó đi lính ở dưới này thì cũng tiện cho con ở dưới này
luôn, thằng Nhật nó thương con nên nó về năn nỉ ba má nó. Và ba con đã bằng lòng
cho ba má nó lo liệu”.
Lại rắc rối cuộc đời! Nhật yêu tôi
từ lúc nào sao tôi không để ý nhỉ? Có phải từ lâu tôi chỉ xem anh như một người
anh trai! Anh có nhiều “đào” lắm mà! Anh vẫn thường kể cho tôi nghe về họ. Một
chị Ánh tóc dài ưa mặc áo tím than như cô gái Huế, một chị Hồng nhí nhảnh lại
chịu chơi nữa. Sao anh không chọn họ? Bộ anh không coi tôi là cô em gái, tại
sao anh vẫn thích đệm đàn cho tôi hát bài “Người Em Nhỏ” của nhạc sĩ Nguyễn
Hiền hoài vậy? Không! Tôi không thể nhận lời làm vợ anh được, khi tôi vẫn còn
yêu An, An vẫn đều đặn đến với tôi bằng những lá thư nồng nàn tình cảm, mặc dù
tôi vì tự ái, không hề hồi âm thư chàng. An còn quả quyết:
-Anh sẽ không bao giờ cưới Quyên cho đến khi nào Dương
thực sự không còn yêu anh nữa.
Và An vẫn đợi chờ một ngày tôi đổi ý để chàng đeo nhẫn
cưới vào tay tôi.
Tôi suýt trả lời thư cho An và kể lể với anh rằng: “Tôi vẫn yêu anh tha thiết, chính anh mới là
hơi thở, là nguồn sống của tôi, tôi
không thể tự đánh mất tình yêu của tôi vì bất cứ một lý do gì, và tôi sẽ chuẩn
bị để đón anh ngày tàu anh về bến” Nếu buổi sáng hôm ấy tôi không nhận được thư của chú Nhân:
“... Có
lẽ cháu với An có duyên mà không có nợ. Tín vừa cho chú hay một tin buồn. Cô
Quyên uống thuốc tự tử, may mà người nhà cô ấy hay kịp nên đưa ngay vào bệnh
viện cứu cấp. Dù cô ấy an toàn nhưng ba má thằng An bắt nó phải làm đám cưới
với cô ấy nếu không muốn trở thành đứa con bất hiếu.”
Tôi không khóc nhưng sao nước mắt cứ rơi. Cô Quyên là
người vô tội mà. Suýt chút nữa tôi lại là người mang trọng tội.
Nghe theo lời cha mẹ,
tôi bằng lòng làm vợ anh Nhật. Nhỏ Thanh vẫn hay đùa:
-Trung Úy Không Quân chớ bộ... đồ bỏ sao?
Còn bọn Trúc, Hà thì ưa xúi:
-Nhà ngươi không lái được thủy thủ thì lái phi công cũng
được vậy!
Thôi
thì đành chấp nhận cái vòng lẩn quẩn của số kiếp con người. Nhưng số tôi xui
hay kiếp trước tôi vụng đường tu? Anh Nhật cũng bỏ tôi mà đi thật xa, mãi mãi
không về, trước khi đến nhà tôi xin lễ hỏi vào hai tuần sau đó. Người anh cháy
đen, co rút lại, nhiều chỗ da thịt nứt nẻ, tôi không thể tưởng tượng đó là hình
hài anh. Cuộc chiến tranh này sao quá tàn ác, đến cái chết cũng không được toàn
thây. Bây giờ anh đang nằm kia, trong cái hộc tủ có tràn hơi lạnh. Vì không
phải là thi sĩ nên tôi không thể “say đi
để thấy mình không là mình” (thơ L ê Thỵ Ý). Tôi phải thật
tỉnh táo để phụ lo việc tẩm liệm cho anh, nhưng khi nhìn những người lính Chung
Sự bỏ xác thân anh vào chiếc quan tài bọc kẽm, rồi họ đè xuống để đậy được nắp
quan tài vào, tôi chợt thấy bủn rủn tay chân, mắt mờ dần và không còn biết gì
nữa...
Người ta đã đưa anh về trên “chiếc trực thăng sơn màu tang
trắng”. Trời Đà Lạt đã vào xuân, chắc đang có muôn ngàn loài hoa khoe sắc
thắm, nhưng nào tôi có nhìn thấy gì đâu.Tôi lặng lẽ đi theo đoàn người đưa anh
về nghĩa trang, chỉ có chiếc quan tài phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ, và những người
Lính cùng đơn vị mà không có đoàn quân nhạc tiễn đưa. Có lẽ lúc này người chết
nhiều quá (chỗ nào cũng nghe nói có VC tấn công), nên người ta không cần đưa
tiễn rình rang (?).
Tôi đi giữa những tiếng khóc than
kể lể của người nhà anh nhưng tôi lại không khóc được như họ. Làm sao tôi có
thể phân biệt được giọt nước mắt nào tôi khóc cho anh và giọt nào cho chính bản
thân tôi? Anh từ giã tất cả để ngủ yên giấc đời đời là đã yên phần anh. Nhưng
còn những người ở lại thì sao? Tự nhiên tôi thấy rùng mình, và lạnh quá.
Hình như có ai vừa bưng thau nước đổ chụp lên người tôi? Tôi ướt hết người và
càng lúc càng lạnh...
Tôi giật mình, mở bừng mắt vì sự
chao nghiêng của chiếc ghe, nước biển văng cao tung toé chụp vào người tôi. Tôi
hốt hoảng kéo cái tấm vải nhựa đã che cho thằng cháu ngủ từ chập tối. Nam đã
ngưng hát tự lúc nào và vầng trăng mười ba mới sáng vằng vặc đó giờ đã trốn mất
phương nào rồi, thế vào đó là đám mây đen lù lù, hình thù quái dị càng
lúc càng phủ chụp xuống mặt biển đen ngòm, biến chung quanh thành một màu đen
đặc, lùa theo cơn gió chuyển nhanh, sóng vỗ vào mạn ghe càng lúc càng mạnh,
những bạn đồng hành của tôi cũng hốt hoảng, lo sợ không kém, nhiều tiếng nói
phát ra cùng lúc:
-Chắc bị bão rồi!
Gió thổi càng lúc càng mạnh, chiếc ghe con
lại lắc lư theo cơn gió và những đợt sóng dâng lên cao rồi đập xuống cái ầm.
-Xuống hết dưới hầm
ghe, đóng kín nắp hầm lại.
Có mấy tiếng người la
to từ phía phòng máy cũng là lúc bà con láo nháo. Chui xuống hầm? Cái hầm ghe
nhỏ chút xíu dùng để chứa đồ mà đủ sức chứa bao nhiêu con người đây sao? Nhưng
rồi ai cũng bò mà leo xuống. Cô cháu tôi xuống sau cùng và nắp hầm sụp xuống.
Đen thùi lùi, lại toàn một màu đen. Mùi tanh, mùi nước tiểu, mùi mồ hôi người,
mùi áo quần ẩm ướt v.v.v., tôi lại muốn nôn mửa.
Tôi ngồi co rút lại ôm
gọn thằng cháu vào lòng như một động tác che chở. Có bao nhiêu diện tích cho
một con người? Như cá sắp trong rổ, nhưng rổ cá lại dồn qua, dồn lại, đè lên
nhau và vẫn còn khoảng trống mỗi khi chiếc ghe nghiêng qua, ngã lại. Tới phiên
ruột gan tôi bắt đầu lộn xộn. Bão đã tới bên trên? Sao chiếc ghe cứ như là lên
dốc rồi tuột dốc thật nhanh vậy? Bây giờ thì tôi không còn nghe được tiếng sóng
hay tiếng mưa rơi vì chung quanh tôi đã có quá nhiều tiếng khóc, tiếng khóc
thút thít của người lớn, rồi tiếng khóc ré của đám con nít, rồi tới khóc ồ,
khóc bù lu bù loa.
-Má ơi! Con biết đi gặp
bão như dầy, con đâu có đi làm chi. Chắc kỳ này bị chết quá rồi. Má ơi! Hu, hu,
hu…Cái cô Mùi mập là người sợ chết trước nhất.
-Cũng tại thằng cha
Tăng mà! Tui đã không chịu đi mà thằng chả cứ biểu đi, hu hu hu, chả nói qua
được bên Mỹ, bên Tây, sướng lắm! Sướng đâu chưa thấy giờ thấy chết tới nơi rồi!
Tiếng nói của chị Tăng
bị đứt quãng vì sự trồi lên hụp xuống của chiếc ghe.
Có quá nhiều tiếng
than khóc, chửi bới, rồi lại những đợt khóc ré lên của đám con nít. Như cơn
bệnh dịch, một đứa khóc là cả bầy cùng khóc theo, rồi người lớn khóc. Đã nói
chiếc ghe chở toàn là đàn bà, con nít mà! Hình như chị Thương bực mình nên chị
nói như hét:
-Sao mấy bà chỉ biết
khóc lóc, than thở, chửi bới không vậy? Có sức đi thì phải có sức chịu chớ.
Chửi chồng, trách cha, rồi cơn bão nó có chịu tránh đi chỗ khác không hả?.
Họ có
thể cãi nhau dù trong cảnh ngộ hiểm nghèo nhất. Sao lại không? Tại sao tôi
không giúp họ khơi dậy niềm tin dù mỏng manh. Cho họ hay cho tôi? Tất cả đều
cùng chung số phận mà! Tôi cũng cố hét lớn:
-Nè! Mấy chị em đừng
than khóc nữa, không có ích gì đâu mà còn tăng thêm phần sợ hãi, mình đọc kinh
cầu nguyện đi, ai biết kinh gì đọc kinh nấy, nhắm mắt lại đọc kinh đi.
Nhiều tiếng lầm rầm phát ra, bọn
con nít bắt đầu nín khóc bớt, rồi có những tiếng đọc thật lớn như cố át đi nỗi
sợ. Hình như kinh Chúa, kinh Phật gì cũng có. Tôi cũng cố đọc kinh Quan Thế Âm
và đọc liên hồi...
-Nước vô buồng máy
nhiều quá rồi, tui tát không nổi nữa, ở dưới đó có còn người đàn ông nào không?
leo lên tát phụ coi, nếu không chắc đành phải chịu chết hết.
Tiếng của Nam hét thật
to trên nắp hầm vọng xuống
-Còn ông Tăng đâu? Ông
Thân đâu?
Chị Tăng nhỏm người
hét với lên.
-Hồi chiều cặp ghe, mấy
chả phóng hết qua bên kia để nghe chuyện tiếu lâm rồi.
-Mẹ! Có chuyện gì đành
chịu chết sao? Tiếng Nam lại hét lớn rồi càu nhàu lẫn trong tiếng mưa, tiếng
sóng.
Làm
sao đây? Không lẽ ngồi co rút ở đây đọc kinh để chịu chết chìm sao? Tại sao
không là tôi đi phụ tát nước? Bao nhiêu năm nếm mùi lao động vinh quang
nên tôi đâu còn là cô tiểu thư chân yếu tay mềm nữa. Nhưng nghĩ tới việc leo
1ên trên kia, chiếc ghe nhào qua, nghiêng lại, trồi lên, hụp xuống, Lỡ tụt tay
lọt ùm xuống biển thì sao? Trời vừa mưa, vừa gió với những ngọn sóng cao vòi
vọi...! Tôi rùng mình khi nghĩ đến cái chết.
Hình
như Nam vẫn còn nằm dài trên boong ghe hét vọng xuống:
-Bà nào có thể tát nước
được leo 1ên đây tôi dắt qua buồng máy, chứ mấy bà ở phía sau ngất ngư nằm bẹp
hết rồi!
Im lặng trong hầm ghe,
vì tối thui nên tôi đâu có thể nhìn được phản ứng của mọi người. Không thể chần
chờ tôi giao thằng cháu vào lòng chị Thương và vịn đứng dậy, nhưng lại ngã nhào
trở xuống đè lên mấy người nào đó, kêu chí choé, lại vịn đứng dậy, lại ngã.
Cuối cùng tôi cũng hé được nắp hầm tàu, nước văng tứ tung, nhìn chung quanh một
màu đen thùi lùi, nước và nước, trên nước, dưới nước, bốn bề nước. Tôi run run:
-Làm sao qua được bển
hả Nam?
-Chị Dương hả? Đừng sợ,
tôi đã cột dây từ bên buồng máy vào người tôi rồi, khúc này chị cột chặt vào
bụng chị đi, níu theo chân tôi mà bò qua, nằm sát dưới mặt ván ghe, không sao
đâu!
Tôi cột tấm nhựa quanh người, buộc chặt sợi
dây rồi theo đà kéo của Nam leo 1ên, bò theo chân Nam nhưng mắt mở trừng trừng,
người run cầm cập. Vì lạnh? Vì sợ? Tôi bị đùa nghiêng qua bên phải rồi bên
trái, mỗi lần chiếc ghe nghiêng, nhưng nhờ người lái tàu rất giỏi và mấy tấm
ván be ghe khá cao nên không lọt xuống nước.
Một tay vịn chặt vào thành gỗ, một tay múc
nước đưa cho Nam đổ ra ngoài. Chiếc gàu nhựa này mọi hôm ở nhà múc nước từ
giếng lên tôi thấy nhẹ hẫng, nhưng sao bây giờ...! Tôi múc không được đầy gàu,
lại còn bị văng tung toé, tự nhiên thấy nặng quá, đã vậy, Nam cứ hối:
-Lẹ lẹ lên chị, ráng một chút đi
chị, nước mà vào đây, ngập máy một cái thì hết chạy được, chỉ còn chờ chết.
Tôi đã múc được bao nhiêu hạt nước mưa,
nước biển? Và tôi đã múc trong bao lâu? Hình như gió đã nhẹ bớt, những giọt nước
mưa thôi không còn đập vào miếng tôn che phòng lái, chiếc ghe đã bớt lắc lư
nhưng người tôi bắt đầu chao đảo, mắt tôi đổ hào quang, tôi quỵ xuống và hồn
tôi lâng lâng...
Tôi đang ở đâu đây? Thiên đàng ư?
Sao lại là một khoảng tối mênh mông? Sao không có động hoa vàng, không có một
tiên ông nào ngồi đánh cờ trên bàn đá vậy? Lại cũng chẳng thấy bầy tiên nữ xiêm
y lộng lẫy, múa hát đờn ca? Bộ nhà trời, ban đêm cũng có cúp điện nữa hả? Mà
chốn thiên đình sao lại có nhiều tiếng động, tiếng ồn ào quá vậy? Chắc không
phải rồi. Vậy là địa ngục. Và tôi đang ở từng thứ mấy? Người đời thường bảo có
“chín tầng địa ngục” lận mà! Tội càng nặng thì có số càng lớn. Ủa mà sao từ lúc
đến đây tôi cũng chẳng thấy một tên đầu trâu mặt ngựa nào hết vậy? Bộ
quỷ sứ bữa nay cũng đi nghỉ phép rồi sao? Mà sao cũng không có một tội nhân nào
bị hình phạt chung quanh tôi vậy? Loài người tội lỗi nhiều lắm mà, nhất
là mấy tên thuộc lớp “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Bọn chúng chết phải đày
xuống địa ngục là cái chắc. Nghe nói địa ngục toàn là dầu sôi, lửa bỏng, phải
là nóng lắm, nhưng sao tôi cảm thấy mát rượi vậy? Tôi lại nghe loáng thoáng có
tiếng nói chuyện, ủa, sao lại là tiếng nói của thằng cháu tôi, bộ nó cũng bị
xuống với tôi sao.
-Cô ơi! Cô đừng có chết
nghe cô. Hích, hích, hu hu... Rồi có tiếng ai đó vỗ về nó:
-Cô
không bị…chết đâu. Một lát cô sẽ…,cháu nằm xuống…
Tôi không nghe rõ hết.
Rồi lại có tiếng thằng em tôi, tiếng được tiếng mất:
-Anh hỏi… bác sĩ, thuốc...
, chừng nào tỉnh?
Thần
trí tôi bắt đầu làm việc lại rồi, óc tôi chạy lên chạy xuống lung tung trong
đầu tôi. Tôi nhớ tôi đang múc nước mà, múc mỏi tay quá, miệng khô môi cứng, mắt
mở không 1ên, rồi tôi qụy xuống. Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Hình như tôi còn
sống và đang ở đâu vậy? Chỗ tôi nằm sao giống cái giường vậy? Tôi cố mở mắt,
cựa quậy, nhưng toàn thân ê ẩm, miệng khô đắng:
-Nước!
-Cô ấy đã
tỉnh lại rồi. Giọng ai đó reo vui.
-Chị Dương, chị tỉnh rồi. Em sợ…. Nước nè,
uống đi!
Có người đỡ đầu tôi
lên, tôi cố giương đôi mắt nhưng chỉ thấy một vùng sáng mờ mờ, tôi muốn biết
đây là đâu, nhưng mí mắt tôi lại sụp xuống, tôi khó thở quá, lại có tiếng ai đó
vang bên tai tôi:
-Thùy Dương! Hãy cố mở
mắt ra, em đã thoát qua cơn nguy hiểm rồi!
Tiếng nói của ai đó sao tôi nghe quen qúa,
giong miền Bắc thật ấm, có một chút vỗ về. Giọng nói của ai? Ai
đã gọi tên tôi?
Ráng hết sức mình, tôi cố giương đôi mắt mệt
mỏi nhìn một lượt chung quanh tôi lần nữa. Trong căn phòng nhỏ có cháu tôi, em
tôi và hai người đàn ông xa lạ, tôi đang nằm trên giường, còn chiếc ghe con
đâu? Tôi gắng sức thều thào:
-Đây là đâu?
Thằng em tôi cầm lấy tay tôi nói thật chậm,
nhưng tôi không nghe rõ hết:
-Mình được tàu cứu, hết
bão, ghe của chị đi bị hư máy, lạc ghe của em, phải tìm…, chị bất tỉnh... ,lo
sửa máy, kéo ghe, gặp được tàu vớt...
Tôi loáng thoáng hiểu.
Bọn tôi đã được tàu cứu. Tàu nào mà nhân đạo quá vậy. Suốt cả tuần lễ đi trên
biển, ghe tôi đã gặp không biết bao nhiêu con tàu, đủ mọi sắc cờ, nhưng đã có
chiếc nào chịu dừng lại cho xin một ít nước uống, mặc dù có lúc ghe tôi đã đến
gần tàu lớn, đã thấy được đám thủy thủ trên tàu. Lại giọng nói ban
nãy nhưng lần này tôi nghe rõ:
-Hãy nằm dưỡng sức cho
khoẻ lại đi, rồi anh kể hết cho nghe. Có biết ai đang nói chuyện không?
-Ai vậy? Tôi không đủ sức để
hỏi nhiều hơn.
-Anh An, Chị Dương ơi! Mình gặp được tàu anh An. Con tàu “Vớt Người Biển Đông” đó.
Mình hên quá!
An! An! Sao anh lại ở đây, trên con tàu nhân
đạo này, bao nhiêu năm rồi anh ở đâu, chắc đã con đàn con đống? và
sao ông trời lại chơi khăm khiến đoàn người đi vớt chúng tôi lại có anh trong
đó, phải chi anh vớt được luôn phần hồn của tôi, có lẽ tôi sẽ là người hạnh
phúc nhất thế giới. Nhưng mà… tôi thở dài mệt nhọc:
-Lâu nay anh vẫn khỏe? Còn... ?
Như
đoán được ý tôi, An rót nhẹ vào tai tôi những vỗ về kín đáo:
-Ai
bảo với Dương là anh cưới vợ? Anh đã nói anh chỉ yêu có em thôi. Cô ấy lấy
chồng rồi. Anh muốn về lại tìm em, nhưng thành phố mất, không thể liên lạc
được, anh vẫn hằng mong gặp lại em. Như Doctor Jivago nhìn thấy người yêu một
lần cuối, ngã ra chết cũng toại nguyện. Nhưng, anh chưa già, không đau tim, sao
chết được hả. Anh đã nói rồi mà… , mình có duyên số, đã tin anh chưa?
Hình như An cười, tôi cũng cố nhoẻn
miệng cười nhưng chắc khó coi lắm.
Tôi lại thiếp đi, rồi tỉnh lại. Hơi
thở tôi nhẹ dần, người tôi có thể cựa quậy được. An vẫn cầm tay tôi và truyền
hơi ấm cho tôi. Hiện tại, tôi là người hạnh phúc nhất? Tôi thoát chết, cả phần
xác lẫn phần hồn! Tôi mở mắt, qua khung cửa kính, những vệt nắng rọi vào làm
mắt tôi phải nhíu lại:
-Hình như nắng đã lên rồi phải không anh?
An cúi
xuống, vòng tay ôm choàng qua người tôi, thì thầm:
-Ừ! nắng đã lên rồi!
Lên thật rồi mà lại còn đẹp nữa!
Chị Hoài Niệm ơi,
đọc truyện “Nắng đã lên rồi”, đến chỗ nhân vật nữ lo việc tẩm liệm xác của
người chồng sắp cưới, em đã không cầm được nước mắt!!! Người con gái
trong truyện đó có phải là chị thuở xưa không? Nếu không sao chị lại có
thể tả được rõ ràng tâm lý và viết thật rõ chi li, chi tiết của câu chuyện đến
như thế??!
Chị HN viết vui,
viết dí dỏm làm cho người đọc không thể không phì cười mà viết để cho người ta
rơi nước mắt cũng thật là tài. Em rất phục!
Em cảm ơn chị đã
tặng cho em 1 quyển truyện gồm toàn những truyện ngắn thật hay. Cảm ơn
thật nhiều, rất là appreciated chị, cảm kích lắm lắm, chị Hoài Niệm mến thương
ơi!
***Cho
phép em “quảng
cáo” với bạn bè emails quyển truyện hay này của chị nha.
nn