LỜI CẢM ƠN MUỘN MÀNG
Lê Thị Hoài Niệm.
Tuyết rơi từ đêm qua đến sáng nay vẫn
còn tiếp tục, những hạt tuyết mỏng manh bay bay trong nắng nhẹ, vậy
mà vẫn ngập kín đường, ngập gần như nửa tấc, con tôi phải ba lần đi
cào tuyết mà con đường trước cửa vẫn đầy sau chừng nửa tiếng đồng
hồ tuyết rơi.
Nhìn ra đường vắng tanh không một
chiếc xe qua lại, đừng nói chi người đi bộ. Thành phố này nằm ở độ cao hơn
7 ngàn bộ so với mặt nước biển nên rất lạnh về mùa đông. Vậy mà chiều nay,
trước giờ gia đình tôi chuẩn bị bữa tiệc ăn mừng “Lễ Thanksgiving” thì
ông bà Dawson đã đến, đúng như lời hứa với con tôi từ hai tuần trước,
khi ông biết chúng tôi sẽ sang thăm con trong ngày lễ.
Con gái tôi gặp ông lần đầu ở bữa
tiệc sinh hoạt của cư dân trong “subdivision”. Ông nhìn cháu một hồi
lâu rồi đến gần hỏi cháu là “người nước nào “?. Ban đầu cháu ngạc
nhiên, không biết tại sao ông hỏi thế, nhưng cháu vẫn trả lời là
người Việt Nam, và ông tự giới thiệu ông là “Việt Nam Vet” đã từng tham chiến
ở VN đến hai lần. Sau khi biết cháu cũng là “cựu chiến binh Mỹ” nên ông rất vui
và bắt chuyện hỏi han đủ điều. Và ngạc nhiên hơn nữa khi biết ba cháu từng là một
Pilot trực thăng của quân đội VNCH, ông ta vui ra mặt và hỏi cháu rất nhiều
chuyện sau đó, để biết rằng Tuy Hòa, quê hương của mẹ cháu cũng là nơi ông
thường lui tới từ những chuyến hành quân. Có lẽ những gì có nơi chúng tôi có gợi
cho ông nhiều kỷ niệm, nên ông rất muốn gặp chúng tôi. Và hôm nay ông đến nhà
thăm chúng tôi đúng như lời đã hứa với cháu.
Ông dọn về thành phố Santa fe mới hơn
ba tháng và thuê ngay căn chung cư gần nhà con gái tôi, đó là cơ hội cho
ông gặp cháu và hỏi thăm về quê quán gốc nguồn.
Cháu sinh ra trên xứ Mỹ, chưa biết gì
về Tuy Hòa quê mẹ, chưa một lần đặt chân đến nơi đó, thế mà khi ông nhắc đến
Tuy Hòa, cháu cũng tò mò muốn biết ông đã đi đến những nơi đâu. Thế là một
già, một trẻ, cùng là “cựu quân nhân” trong quân đội Hoa Kỳ, một là
đại tá Không quân, một là đại úy Hải quân, vào độ tuổi “cha con” nên ông không
ngần ngại gọi cháu là con gái nuôi, vì ông bà chưa từng có tiếng khóc con nít trong
nhà trong suốt mấy chục năm qua.
Trời bên ngoài lạnh lắm, nhưng trong
căn phòng khách thật ấm cúng, ấm cúng vì có tiếng lách tách của
ngọn lửa nhỏ từ trong lò sưởi lan tỏa khắp căn phòng, ấm hơn vì sự
cởi mở trong câu chuyện trao đổi giữa hai người đàn ông, một Việt tóc
muối tiêu, một Mỹ tóc bạch kim, hơn nhau vài tuổi đời cùng bên trời lận đận
những tháng năm xa xưa đó, nên câu chuyện họ xoay quanh là những kỷ niệm
chinh chiến, những con đường, những chuyến bay mà họ đã từng bay qua trên
vùng lửa đạn tuy kẻ truớc người sau,... Đúng họ là hai người Lính cũ, cùng là những phi công trực
thăng, từng phục vụ trong binh chủng không quân dưới bầu trời nước
Việt từ những ngày xa xưa cũ.
Ngày đó đơn vị ông đóng quân ở gần Tuy
Hòa, đó là lý do tại sao ông tìm đến với chúng tôi, vì Tuy Hòa là
một phần quê hương trong tuổi nhỏ của tôi, một quê hương bỏ lại vì
chiến tranh giặc giã lan tràn, nhưng ở đó vẫn có quá nhiều kỷ niệm,
Một con đường quê ngày ngày tôi đi học về, phải qua một cây cầu sắt dài có lề
cho người đi bộ, mà mỗi lần xe hơi chạy qua là nó muốn hút mình theo. Ở đó có
con sông rộng bốn mùa nước trải mênh mộng, chạy ôm luồn ngọn núi nhỏ mà trên đó
có ngôi Tháp Nhạn của người Chăm xây dựng nên từ bao thế kỷ trước, đang đứng uy
nghi sừng sững cho người lên cúng bái. Và nơí đó người đàn ông Mỹ đã mấy lần lượn
vòng lên đó, để khi ông nhắc đến, chúng tôi cũng góp tiếng vào khiến ông vô cùng
thích thú. Ông kể chuyện rất vui và ông cũng nhớ nhiều về kỷ niệm hơn
một năm trời ông đóng quân gần thành phố đó. Vì dù gì cũng đã hơn năm
mươi năm ông mới có dịp ngồi gợi nhớ lại
kỷ niệm, mà tưởng chừng như không bao giờ ông có cơ hội nhắc lại.
Phi trường Đông tác cát bụi mịt mù, phi đạo
kép chỉ là những rỉ sắt kết lại mà thành. Nó nằm giữa một khu đồng không mông
quạnh chỉ có toàn cây dương và dương, xa xa là vùng biển bao la xa ngút mắt. Nơi ông ở nguời ta cũng làm những căn nhà tiền chế, nên cũng
đầy đủ tiện nghi, và vùng hành quân của những chiếc trực thăng thuộc đơn vị của
ông và những người bạn khắp miền Trung và vùng rừng núi chập
chùng, trùng điệp.
Có lẽ chúng tôi là người khơi dậy trong tiềm
thức của ông về những chuyện hành quân gian khổ trên vùng đất xa lạ, vùng đất có
những cơn gió nồm mát mẻ dễ chịu, nhưng cũng có những trận gió …nam lào nóng rát
cả thân. Mùa hè đã nóng bức mà khi có những trận gió xoáy từ vùng núi đổ xuống,
trên những đồi cát nóng, thật khó mà tả được nỗi vất vả chống trả khí hậu khắc
nghiệt này.
Ngày ông sang Việt nam phục vụ, chồng tôi
chưa vào lính. Nhưng những địa phương ông kể, sau này chồng tôi cũng bay trên
những vùng trời đó, nên họ hiểu rất rõ những khó khăn, gian khổ. Ông nói ông thích
nhất là vùng biển đẹp Vũng Rô, có nhiều khi ông bay ngang qua đó, dẫu biết nguy
hiểm, nhưng ông cứ muốn bay vòng vòng và muốn đáp trực thăng và nhảy ùm xuống tắm
vì nước trong xanh và phẳng lặng vô cùng. Những bãi biển ở Mỹ này, ngay cả bên
vùng vịnh Mexico không thể nào so sánh được (?).
Tự nhiên chồng tôi lên tiếng nhắc:
-Ông hứa sẽ kể cho chúng tôi nghe chuyện tình
của ông và người con gái Đông tác khi ông đóng quân ở đó.
Ông liếc ngang bà vợ, rồi làm bộ le lưỡi
như không muốn nói, tự dưng ông cười thật sảng khoái và hỏi con gái tôi:
-Laura, ba cháu có kể chuyện tình của ông
trong những ngày ông đi lính lúc chưa gặp mẹ cháu cho cháu nghe không?
Thế là câu chuyện xoay quanh những chuyện
vui từ hồi xa lắc xa lơ, thuở mà ông mới bập bẹ học vài tiếng Việt để trao đổi
với những người vào dọn dẹp phòng ốc cho những người Lính Mỹ xa nhà. May quá, ông
không để lại mối tình lớn nào nơi đó, nên không có cảnh con lai đi tìm cha như
những đứa trẻ cứ xuất hiện trên báo sau này.
Bữa “tiệc” chiều do mẹ con tôi dọn sẵn, không
phải con gà tây nướng và những thực phẩm đi kèm như trong những bữa tiệc Tạ ơn của
người Mỹ, mà chỉ là những món ăn Việt nam, nhất là chả giò và …nồi phở bốc khói.
Vì ông Dawson thích hai món ăn đó nhất.
Ông vừa ăn xong vừa hít hà vì hơi nóng của
tô phở bốc lên làm mờ đôi kính cận, ông tháo cặp mắt kính ra để lau và định nói
câu gì đó, Nhưng chồng tôi đã lanh miệng hơn, chàng bắt đầu lời nói rất trịnh
trọng khiến chúng tôi cũng hơi ngạc nhiên, nên ngừng lại chờ đợi.
-Chúng tôi vô cùng cảm ơn ông! Ông và bà
Dawson. Lời cảm ơn rất chân tình tuy có muộn màng sau hơn năm mươi năm của một
người Việt nam tị nạn cộng sản trên đất nước Cờ hoa này.
Ông Dawson hơi bỡ ngỡ khi nghe lời cảm ơn
của chồng tôi, ông hơi ngập ngừng một chút rồi phá lên cười thật lớn.
-Le, ông nói gì vậy? Sao ông cảm ơn chúng
tôi? Chúng tôi phải cảm ơn ông bà và cháu về bữa ăn “Happy Thanksgiving” chiều
nay chứ!
-Không! Mỗi lần tôi gặp một người Việt Nam
Vet nào, là tôi rất quý trọng và cảm ơn họ. Tôi cảm ơn ông và nhiều người Mỹ trai
trẻ thời đó đã đến phục vụ trên quê hương chúng tôi, quý ông đã hy sinh quá nhiều,
đôi khi cả tính mạng nữa, mà có người còn không hiểu rõ hết vì sao phải hy sinh
ở một đất nước hoàn toàn xa lạ? Tôi cũng là Lính như ông, nhưng tôi vì bổn phận
phải phục vụ tổ quốc mình, còn quý ông…! Làm sao chúng tôi quên ơn những người
Lính như quý ông được.
Ông Dawson nín lặng không cười nữa, có một
sự xúc cảm hiện lên khuôn mặt ông, ông nắm tay bà vợ và bằng một cử chỉ rất thân
mật, họ đứng dậy bước sang phía chúng tôi, đưa tay ra nắm chặt lấy bàn tay của
chúng tôi. Những cú siết tay không lời và vòng tay ôm thân mật mà vợ chồng ông Dawson
thể hiện, là những lời nói tốt đẹp nhất trong mùa Lễ Tạ Ơn năm nay đối với gia đình
chúng tôi.
Lê Thị Hoài Niệm.