Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

 

Nắng hạ.

Hạ về rải nắng lung linh

Cho hoa thắm sắc trở mình chào nhau

Mây vờn lơ lửng từng cao

Gió lay lay nhẹ thì thào lời ru

Dẫu mà nắng nóng ngất ngư

Cứ vui với nắng mỉm cười nhé hoa

Tình yêu trải rộng chan hòa

Mây vờn, gió thổi, nắng ca, hoa cười.!






Còn người than....nóng quá trời!

Lạnh thì... lạnh dữ!, mưa rơi...rơi hoài!

Khổ thân Ngọc đế mệt nhoài

Lệnh quân xuất phát xét soi sự tình

Nhưng rồi Ngọc đế ...bãi binh

Thở dài buồn bã cúi mình....chịu thua

Làm sao đáp ứng cho vừa ?

Khuyên: Người chấp nhận đừng...thưa gửi hoài!!!!

Hahaha...

Lê thị Hoài Niệm .29/6/24.

 

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2024

 


HAPPY FATHER’S DAY

Hôm nay là “Ngày của Cha”! mọi người đều có lời chúc nhau rất thân thương và đầm ấm tình gia đình, bè bạn trên mọi nẻo, mọi lúc, và trên các trang mạng là nhiều nhất..

Rất tiếc Ba tôi đã quá vãng khá lâu rồi, mãi tận bên nhà, nên không còn cảm nhận hết được ý  nghĩa và niềm vui tặng cho Ba mình những món quà và tình yêu thương mà cha thích. Nhìn lại cha của các con mình, cũng đâu thấy gì khác biệt với ngày thường là mấy, vì các con đều ở rất xa, ngày nào cũng gọi thăm cha, cha con nói đủ thứ chuyện rồi cười vui vẻ, cha chúng cần gì đã có ngay ông shipper đem tới tận nhà vì chúng order trên net. Vậy thì có thêm lời chúc chắc chỉ đem tới cho cha chúng thêm chút niềm vui thôi. Nhưng dầu sao cũng cứ “Happy Father’s day” cho vui nhà vui cửa.

“Cha” cũng vui vì còn “vợ chồng già” ngồi kháo chuyện đời. Tuổi “xế chiều” mà còn đủ hai người ngồi trong nhà nói đủ chuyện trên trời, dưới đất, chuyện xưa chuyện nay là một “ân sủng” của Trời ban chứ chẳng phải chuyện thường. Nhìn chung quanh bè bạn, sao thấy toàn là quý bà mà vắng vẻ quý ông?. Thì ra quý ông đã về trời hết ráo. Lý do đơn giản: ngày trước quý Bà lầy chồng rất sớm, thua chồng có khi cả chục tuổi, nên quý cụ ông ra đi về bên kia cõi đời sớm là chuyện đương nhiên.

Ông chồng tui thì thường ngồi…kể chuyện đời xưa. Hay chứ, có quá nhiều chuyện mình đâu có biết hết, nhất là chuyện “lính mà em!”từ những ngày xa xưa đó. Ông là tài xế máy bay mà, nên bay rất nhiều vùng trên miền Nam xưa cũ, biết nhiều địa danh, vùng miền tên gọi. Ba ông mất khi ông đang đi bay ở trên trời vùng bốn chiến thuật. Ông cũng về được quê để làm đầy đủ tang lễ cho cha. Vậy nên bao nhiêu năm ông đâu có ngày “Từ phụ” để chúc mừng hay quà cáp, nên nhiều lúc ông hay đùa rằng ông có ngày…Bỏ Cha ( từ là lìa, bỏ, không nhận…Phụ là cha.), nên không còn cơ hội thực hiện được tâm tình con dành cho cha. Tiếc lắm.

“ Happy Father’s day” phát xuất từ nước Mỹ, vậy mà bây giờ đã lan truyền đến rất nhiều nơi trên thế giới. Kể ra mấy người làm “thương mại” cũng hay quá. Ngày vui mà, càng phổ biến cho nhiều người thực hành theo, thể hiện tình thương mến thương đến bậc sinh thành  là điều nên lắm lắm.

Chúc cho những người còn cha, còn mẹ, hãy thể hiện tình cảm dành cho cha mẹ mình trong những ngày vui, dù ngày nào trong năm cũng là ngày cha hay ngày mẹ, chứ cứ …đợi đến ngày này là thể hiện chút tình cảm bằng cách mời cha hay mẹ đi nhà hàng ăn và tặng món quà, dù rất lớn, thì cũng hơi buồn!.

Lê thị Hoài Niệm.

“bà xã” Hoài Niệm này thì không có …nghĩa vụ tặng quà , nhưng ngày vui mà, thích hét karaoke “Một chuyến bay đêm” để làm…kỷ niệm cho vui, chắc chẳng ai cười.. Happy father’s day.

Thứ Hai, 10 tháng 6, 2024

TÌNH CHA CON.

                                                               Lê Thị Hoài Niệm.

 


Ông Brown ngồi trên chiếc ghế dựa trước hiên nhà, nhìn lơ đãng lên hàng thông phía trước, nơi có con chim cu bé tí xíu đang gật gà gật gù trong cái tổ nhỏ xíu được kết bám vào cành thông, hình như nó đang đói bụng và chờ thức ăn. Ông nhìn mãi con chim ốm yếu run rẩy trong cơn gió, cái đầu nó gục xuống, nó cất tiếng kêu rúc rúc, lát sau có con chim lớn xà lại, mớm thức ăn trong miệng nó vào mỏ con chim con, con chim con nuốt vội có vẻ hả hê sung sướng lắm. Hình ảnh đầm ấm dễ thương quá, ông cứ nhìn mãi nhìn mãi đến khi con chim mồi hết thức ăn trong miệng vào mỏ con chim con và bay đi. Con chim con no nê nên không còn kêu la nữa, nó soải hai cánh tập bay, nhưng chưa đủ sức và rớt cái bịch xuống đất rồi đập đập cánh tập bay tiếp…

 

Một con gió lạnh thổi qua, làm ông rùng mình và thấy mắt mình cay cay. Ông hình dung lại dáng vẻ của đứa con gái hồi chiều trong bệnh viện tâm thần của thành phố, nó ngơ ngơ ngác ngác lấm lét ngó ông rồi ôm đầu ngồi thụp xuống đất trong trạng thái sợ hãi. Ông chỉ biết đứng nhìn trân trân vào nó, vào cái chân đang băng bó và bộ đồ short trên người chắc má nó đem vô. Ông xót lắm nhưng không thể mở miệng an ủi hay nói một câu gì với nó ngoài vài câu thăm hỏi người vợ cũ đang ngồi buồn xo trước cửa. Căn phòng nó nằm trống trơn ngoài 4 bức tường trắng xóa và cái giường twin size phủ chiếc ra trắng bóc, ngoài chiếc gối và cái mền đắp, không có bất cứ vật dụng gì. Ông đứng một lát rồi lại ra về trong xót xa. Ông muốn khóc nhưng những giọt nước mắt bị chẹn ngang đâu đó, chỉ thấy hai con mắt đỏ hoe để những người nhân viên trong bệnh viện nhìn ông thông cảm, vì những phòng chung quanh, cũng có những con người ngơ ngơ ngáo ngáo, những người cũng đi tới đi lui trong âm thầm, lặng lẽ.

 

Đã bao nhiêu năm rồi ông ít quan tâm tới đứa con gái này, vì cuộc sống gia đình mới bận rộn quá hay là ông đã quên? Ngoài giờ đi làm ở một công ty bào chế thuốc, ông cứ phải phụ với bà vợ lo cho hai đứa con trai từ lúc nhỏ đến nay đang ở gần cuối bậc trung học, chúng có quá nhiều sinh hoạt, nhất là thành viên của ban nhạc ở trong trường, nên ông và vợ cứ thay nhau đưa đón tụi nhỏ cũng hết giờ, cuối tuần thì dành cho bạn bè, thân quyến tiệc tùng, cuộc vui, đưa mấy đứa nhỏ đi tham dự những trận football, basket ball,..v..v.., Giờ ngẫm lại ông cảm thấy vô cùng hối hận, ước gì thời gian trở lại nhiều năm về trước,  ông chịu nghe lời vợ cũ mà quan tâm chăm sóc đứa con gái đang trong tuổi vừa mới lớn, chắc con bé không vướng vào băng nhóm tội lỗi, để gặp tình trạng tội nghiệp như bây giờ…

 

Sinh nhằm thời chinh chiến, ở vào tuổi bị động viên, vừa học xong trung học, đâu biết nhiều về cuộc sống bên ngoài đối với cậu bé quê làng như ông. Nhưng rồi cũng như những thanh niên cùng trang lứa, ông  lên  đường nhập ngũ mà không biết cuộc đời rồi sẽ ra sao ngày sau. Qua một thời gian huấn luyện, đơn vị ông được đưa sang Việt Nam, một quốc gia hoàn toàn xa lạ từ tên gọi, điạ lý và giống dân, ông chưa bao giờ nhìn thấy qua một lần trên bản đồ, đừng nói chi đến gặp gỡ và trò chuyện với người dân nơi đó.

 

Một buổi sáng mùa đông, từ địa phương ông ở khí hậu lạnh cắt da, tuyết phủ đầy đường, thì nơi ông đến, mồ hôi nhỏ giọt trên từng khuôn mặt, trên lưng của tất cả mọi người. Những vạt nắng như đâm bổ vào người, như thách thức sự hứng chịu của đoàn quân viễn chinh vừa mới đến. Những ngỡ ngàng xa lạ với quang cảnh chung quanh, những con người, tiếng nói, đến những sinh hoạt tầm thường, nơi ăn chốn ở cũng là những xoay sở khó khăn mà ông và những đồng đội đang gánh chịu. Đã vậy, chỉ sau vài ngày ngắn ngủi ở nơi đổ quân ven thành phố, đơn vị ông đã được đưa về vùng nông thôn hẻo lánh. Nơi đó, những con đường đất lầy lội, có đoạn được trải đá xanh nhưng cũng lồi lõm bởi dấu chân xe, chân ngựa. Những mảnh vườn nghèo nàn, khô khốc với dăm ba cây ăn trái miền nhiệt đới. Người dân thì đen đúa, quần áo trông nghèo nàn với quần đùi, áo cánh. Có người đứng xa xa chấp hai tay sau lưng mà nhìn, có người chạy vội vào nhà khép hờ cánh cửa ngó ra, chỉ có những đứa trẻ là chạy theo đoàn xe và xin ..kẹo, ông đoán thế, vì các bạn ông đã “quăng” những thỏi sewingum xuống và bọn trẻ nhào đến chụp lấy chụp để rồi cười hắc hắc không ngại đất đá dơ bẩn trên đường…

 

Đơn vị ông không tác chiến trong rừng sâu, mà là đơn vị công binh đi làm đường, bắt cầu, sửa sang những căn cứ quân sự, trường học địa phương…, nên căn cứ đóng quân ở ven đô của một tỉnh miền đông nam phần.

Người Lính viễn chinh vui ít buồn nhiều, dù là một đơn vị không tác chiến, nhưng không vì thế mà được sống an toàn, vì đâu đâu cũng được “tình báo” báo cáo coi chừng có giặc từ những xóm nhà chung quanh, xóm nhà này nguyên là “ấp tân sinh” của những người…tị nạn cộng sản lúc trước. Đối với ông và các bạn, người dân xứ sở này sao nghèo quá, nhà cửa thì có chút xíu, thỉnh thoảng mới có căn nhà đúc lợp mái ngói, trông bên ngoài có vẻ đồ sộ nhưng bên trong thì cũng chẳng có phòng ốc gì nhiều, còn thì nhiều nhà chỉ có vách đất, mái lợp tranh, hoặc những tấm phên tre che chắn, hay những tấm tôn vá chùm vá đụp chồng lên nhau để che nắng che mưa, khiến ông không khỏi chạnh lòng.

 

Đâu có giống như quê ông, dù ở một làng quê nhỏ, chung quanh là những ruộng bắp ngút ngàn, nhưng người dân sống rất thoải mái. Những ngày còn đi học, mùa hè ông cũng giúp gia đình ra ruộng, nhưng ngồi trên những chiếc máy cày xới đất, chỉ điều khiển cái máy cho chạy suốt buổi là xong. Đời sống người dân quê của ông dễ thở lắm, nhà cửa cũng đầy đủ những tiện nghi cần thiết, nhiều khi còn rộng rãi hơn nhà ở thành phố, cũng có xe hơi hai ba chiếc, chiếc đi phố chợ khác với chiếc truck ra đồng. Những đứa bạn ông cũng đẹp trai đẹp gái, đa số cũng học tại ngôi trường tiểu hoc, rồi trung học rất khang trang ở trong làng. Chúng nó mặc jean cưỡi ngựa mỗi khi có dịp, ăn uống thì đa số là chất tươi ngon, chứ đâu có thấy thiếu thốn như vùng quê xứ sở này.

 

Đơn vị ông được sắp xếp sống trong những căn nhà tiền chế, cũng đầy đủ những điều kiện cơ bản tối thiếu, nên rất cần những người địa phương vào phụ việc.

Trong nhóm người vào làm việc trong căn cứ của ông, một số làm văn phòng, thông dịch viên đa số là đàn ông, còn lại những người nấu ăn, giặt quần áo, quét dọn phòng ốc..v..v.. là những người con gái mới lớn, trông họ quê mùa chân chất, nhưng rất siêng năng. Ở đó ông gặp bà Chinh.

 

Thời gian đầu bà không dám lại gần ông. Người con gái VN nhỏ thó, có cặp mắt đen lay láy và mái tóc dài nhung mượt, lúc nào cũng cười dù ngôn ngữ …bất đồng, Bà không biết một chữ tiếng Mỹ còn ông thì bù trất tiếng địa phương. Nhiều bữa ông muốn đến gần cầm tay bà khi bà vào dọn phòng và ông còn ở đó, nhưng ông không biết nói thế nào cho bà hiểu rằng ông thích bà lắm, chỉ sợ bà hiểu lầm rồi la lối um sùm lên thì phiền. Nhưng sau nhiều buổi gặp gỡ, ông tìm cách “tặng” bà những mòn quà từ xứ sở Mỹ quốc của ông như cái ly thủy tinh, bình thủy đựng nước nóng, cái quần jean, áo thun màu, những gói kẹo chocolate…., được ông mua từ hôm xuống PX dưới thành phố Sài Gòn với mấy người bạn cùng đơn vị. Cuối cùng ông đã lấy được tình cảm của bà, khi bà cứ cười cười, hình như cũng đã thích ông, người Lính Mỹ trẻ tuổi đẹp trai và tràn đầy sức sống.

 

Ông đến thăm nhà bà vào một buổi trưa ngày chủ nhật, cứ như là một lần “dạm hỏi”. Từ khi hai người “thân nhau”, Bà cũng học được vài tiếng Mỹ nơi ông và nhờ người thông dịch viên chỉ giúp, nên bà cũng hiểu được chút chút những điều ông tâm sự, cũng hiểu sơ sơ những ý thích của một người Lính trẻ, vì tuổi tác của họ không chênh lệch gì nhiều...

 

Nhà bà nghèo quá, một căn nhà thật nhỏ trong một khoảng sân cằn cỗi, ở phía cuối sân sau là vài cây gì đó đang có quả, trong nhà không phòng ốc riêng tư gì cả có làm ông ngạc nhiên, khi mà gia đình bà ngoài cha mẹ, còn một lô em út đến chừng sáu đứa. Buổi trưa nắng mà bốn đứa con trai chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi, thân hình ốm nhom, mặt mũi đen đúa, mồ hôi nhễ nhại như vừa đi …tập trận ngoài nắng trở về nên ngửi có mùi khét nắng, hai đứa em gái thì lén lút đứng dưới bếp nhìn lên. Những hộp kẹo ông mang đến tặng, những hộp bút chì sáp, những thỏi sewing gum và một lô quần áo thun từ nước Mỹ, là những món quà được mẹ ông gửi sang theo “đơn đặt hàng” của ông để tặng cho gia đình nhà bà. Ban đầu, cha mẹ bà có hơi ngần ngừ, và họ chỉ cười cười chứ cũng chẳng biết ông nói cái chi chi mà trả lời trả vốn hay nói tiếng cảm ơn…

 

Lần thứ hai ông đến cũng là lúc đơn vị ông tổ chức đám cưới cho ông bà. Một buổi tiệc đơn sơ có thông dịch viên và chỉ huy trực tiếp của ông tham dự, cũng có làm gia đình của bà “nở mày nở mặt” với hàng xóm. Ông thấy rất nhiều người đứng lố nhố dưới nhà bếp, một số đứng thập thò ngoài cửa rồi chỉ chỏ nói cười, như một lời chia vui với gia đình nhà vợ ông?, mà theo quan niệm những người Việt nam nông thôn ngày đó, người nào “lấy chồng Mỹ” không  những không được coi trọng mà còn bị dè biểu khinh khi. Người thông dịch viên bảo thế chứ bà Chinh làm sao có thể nói cho ông biết, ngoài một vài từ ngữ thông thường để trao đổi hàng ngày.

Từ khi ông cưới được bà Chinh, căn phòng thuê ngoài con phố nhỏ là “tổ ấm” của ông bà. Nhưng căn nhà của cha mẹ bà cũng được ông xin đơn vị công binh chở đến một số vật dụng xây cất cần thiết để sửa chữa, nên căn nhà được rộng rãi, thoáng mát hơn.

 

Bà Chinh bây gìờ là là bà Brown chính danh sau nhiều thủ tục “điều tra” an ninh khó khăn và cần thiết.

 

Bà theo chồng sang Mỹ, khi ông được trở về cố quốc sau một năm thi hành nghĩa vụ. Ông được giải ngũ và về sống tại một làng nhỏ tên Harward, ngoại ô thành phố Chicago, chủ yếu là trồng bắp và đậu. Ngày về của họ cũng “trăm cay ngàn đắng”, khi mà nạn phản chiến có mặt khắp nơi và người Lính Mỹ trở về bị “hất hủi”. Nhưng nhờ gia đình che chở cho vợ chồng ông, nên mấy mẫu đất trồng bắp, ông được tiếp tục canh tác. Đời sống của họ cũng ổn định, khi mà mẹ ông rất thương bà Chinh, người con gái nhỏ Việt nam xa nhà, sống nơi đất lạ một mình mà ngôn ngữ thì bất đồng, phong tục thì lạ hoắc, thức ăn đồ uống đều khác biệt. Rồi nhà họ có thêm hai đứa bé con thật dễ thương: một trai, một gái và được ông bà nội nâng niu, chiều chuộng, thương quý hết mực.

 

Gần cuối năm 1974, vì bà nhớ nhà lắm lắm nên xin gia đình cha mẹ và ông cho bà về thăm, trong lúc ông vừa vào thành phố xin làm việc trong hãng bào chế thuốc nên không thể đi được cùng bà. Hai đứa con mới ngoài ba bốn tuổi cùng đi với mẹ về quê ngoại thăm viếng.

 

Nhưng rồi biến cố mùa Xuân đau thương đổ ập xuống miền Nam, Bà loay hoay với hoàn cảnh gia đình cha mẹ anh em, đi không nỡ mà ở không đành, và cuối cùng bà kẹt lại để thấm thía với cuộc sống ăn độn bo bo vào mỗi bữa cơm, để hai đứa bé Mỹ lai còn nhỏ xíu bơ vơ, ngơ ngác không biết tại sao chúng phải sống với hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ như thế.

Ông Brown tìm mọi cách liên lạc với vợ sau một thời gian, nhưng tất cả tin thư đều im bặt, Mẹ ông cũng cuống cuồng lo cho hai đứa cháu nội của Bà. Lúc này tòa đại sứ Mỹ chưa làm việc thì biết nhờ cậy vào ai..

Sau vài năm tin thư của vợ không có, ông Brown đã tìm đến người bạn gái ngày xưa học cùng lớp để tìm an ủi, và cuối cùng họ kết hôn với nhau sau khi ông ly dị đơn phương với bà Chinh. Và ông có cuộc sống mới từ đó.

 

Bà Chinh sống tại VN thời gian nước nhà bị “giải phóng”, bà bị chính quyền địa phương mới hành hạ đủ điều vì bà lấy …đế quốc Mỹ và có con với Mỹ. Dù ở quê, nhưng căn nhà trước kia ông xây cho gia đình bà rất khang trang so với người địa phương, nên là điểm chú ý của họ, gia đình bà bị đuổi ra khỏi nhà để đi đến một nơi khác xây dựng lại cuộc đời, đó là lý do tại sao gia đình ông Brown liên lạc bằng thư từ mãi không được.

 

Khi đã ổn định chỗ ở mới gần thành phố, bà Chinh tìm mọi cách liên lạc với gia đình bên Mỹ, cũng là lúc bà biết tin ông Brown xây tổ uyên ương với chính người bạn gái đồng chủng của ông. Bà buồn và lo sợ lắm, nhưng với bản tính chất phác, hiền lành của người dân quê, bà nhờ người viết thư “năn nỉ” ông bảo lãnh cho gia đình bà về lại Mỹ, dù gì hai đứa con của bà cũng là con cháu của họ, là công dân Mỹ hẳn hoi, và lại cha mẹ chồng của bà cũng rất thương cháu nội.

 

Và chính mẹ chồng bà là người đứng ra lãnh ba mẹ con bà về Mỹ vào khoảng đầu thập niên 80, vì họ là người Mỹ mà! được trở về nước thôi. Còn ông đã có vợ mới nên không bảo lãnh cho bà được nữa.

Bà Chinh được sự giúp đỡ của nhà chồng để tạo dựng lại cuộc đời mới. Bà đi làm tạp dịch trong chợ K-Mark thời đó để nuôi hai đứa con với sự trợ giúp thêm của chính phủ với người có thu nhập thấp, có housing để ở. Thằng Travis, con Trish lớn lên theo ngày tháng với mẹ, có ông bà nội ở gần, nhưng cha thì đang ở với gia đình mới trong thành phố nên chỉ có những ngày lễ lớn mới có dịp gặp cha.

 

Travis lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và bà nội sau khi ông nội mất, cậu chăm chỉ học hành đàng hoàng và sắp ra trường sau bốn năm đại học.

Nhưng Trish thì không theo bước chân của anh trai, cô càng lớn càng có nét đẹp dịu dàng của một người con gái mang hai dòng máu Việt -Mỹ, đôi mắt hơi ngã màu hạt dẻ nhưng mái tóc thì đen tuyền giống như mẹ, mũi miệng rất xinh, mỗi khi cô cười thật có duyên nên có rất nhiều bạn trai theo đuổi. Cô chưng diện nhiều hơn, theo bạn bè bỏ học đi chơi nhiều hơn thời gian đến trường nên không tốt nghiệp được bậc trung học. Bà Chinh dù rất thương con, nhưng vì ngôn ngữ bất đồng, bà không đủ từ ngữ để hiểu hết những gì con nói, còn bà nói thì con không hiểu vì bà chưa có thì giờ để dạy nhiều tiếng Việt cho con. Nhiều lúc hai mẹ con gặp nhau, bà chỉ nói vài câu ngắn thì Trish đã vùng vằng bỏ đi mất, còn nói vọng lại là bà “talk too much”!. Mẹ chồng bà dù thương cháu đấy, nhưng cũng đâu có gần gũi cháu nhiều, nhất là từ khi Trish bỏ làng nhỏ để vào thành phố lớn, thì mẹ và bà không còn kiểm soát được con cháu, và cũng không biết nó ở đâu mà tìm, nếu nó không gọi về cho hay. Cũng khó báo cảnh sát vì Trish đã trên mười tám tuổi, không còn tuổi vị thành niên. Bà có gọi báo cho ông Brown biết tin về Trish khi được giấy báo từ trường học gửi về là Trish không tốt nghiệp được lớp 12. Bà muốn ông cố gắng về thăm con và tìm cách nói chuyện khuyên răn nó. Nhưng rồi ông cứ hẹn lần hẹn lửa từ tuần này qua tuần khác với đủ mọi lý do.

 

Để rồi một hôm, từ ty cảnh sát gọi đến nhà cho bà Chinh rằng Trish Brown đã bị thương nơi chân, nhưng vết thương không nặng lắm. Có điều cô ta bị khủng hoảng nặng về tinh thần, rất cần sự có mặt của người thân bên cạnh.

Bà Chinh đã hốt hoảng tìm đến bà mẹ chồng nhờ cùng đi vào nhà thương tận trong thành phố. Hai người đàn bà một Mỹ một Việt được cảnh sát đưa đến căn phòng có người canh giữ, để thấy một Trish đang ôm đầu sợ hãi thu mình trong một góc giường, dù chân trái đang bị băng bó, nhưng cô cứ khóc thét lên rồi thu mình lại, rồi ôm đầu run rẩy, mặt lơ láo, mắt lấm lét né tránh mọi người, hỏi gì cũng không chịu nói.

Bao nhiêu nước mắt bà Chinh đổ dồn vào cho con gái, bà ở ngày ở đêm với nó, có bác sĩ chăm sóc, ngay cả bác sĩ tâm lý. Nhưng tình trạng thần kinh của Trish vẫn không ổn định, để cuối cùng người ta phải chuyển vào bệnh viện tâm thần của thành phố, nơi có đủ “chuyên môn” để chữa cho những người vừa trải quan một cú sốc quá nặng và rơi vào tình trạng mất kiểm soát tinh thần.

 

Thì ra, trong những ngày Trish bỏ nhà đi, đã bị lôi cuốn vào một đám bạn …găng tơ, theo lời cảnh sát điều tra hôm xảy ra tai nạn, là hai băng đảng thanh toán nhau, người yêu của Trish đã bị bắn chết tại chỗ, với hai người khác nữa, Trish kịp thời lao xuống xe nên đạn chỉ xướt qua ống chân.

 

Và hôm nay, biết tin con gái được đưa vào bệnh viện tâm thần, ông đã đến thăm con. Dù thế nào nó cũng là giọt máu chính thức của ông, ông đã từng bế con lúc nó còn đỏ hỏn đến khi nó biết cười biết nói. Ngày đó, thỉnh thoảng ông chở hai anh em nó trên xe truck chạy ra ngoài ruộng để nhìn chúng đi lẫm đẫm bỏ mấy hột bắp giống xuống mấy luống đất ông đã cày xong. Hai anh em nó cách nhau có một tuổi nên đứa này bưng bình sữa thì đứa kia giật lấy, thường thì con em ăn hiếp thằng anh, làm ông bà cứ phải bế hai đứa chạy ra hai nơi mới êm chuyện mà cười vui thích thú.

 

Con bé đi lẫm đẫm năm nào giờ đang ở trong căn phòng kín của bệnh viện tâm thần với vẻ mặt ngơ ngáo, tinh thần hoảng loạn đó sao?. Làm sao, làm sao, làm cách nào để ông giúp được con gái ông cho nó trở về đời sống của người bình thường xưa cũ? Ông  ôm đầu tự trách chính ông, ông đã không làm tròn bổn phận người cha, ông đã phớt lờ lời van xin của vợ cũ, ông đã bỏ rơi con gái! Ông ước gì thời gian trở lại và con gái ông vẫn còn nhỏ, để ông hết lòng gần gũi nó, thương yêu trìu mến, dạy dỗ và săn sóc nó như những ngày nó còn bé. Nhưng bây giờ đã trễ? chưa biết con gái ông có bằng lòng cho ông chuộc lại những lỗi lầm trong những tháng năm qua? Nếu ông quan tâm chăm sóc con gái, chắc gì tình trạng như hôm nay đã xảy ra. Không biết nỗi dằn vặt này có theo ông suốt những tháng năm còn lại?.

 

Chiều xuống lâu rồi, hình như có ánh đèn cửa từ căn nhà hàng xóm đối diện chiếu sang. Ông Brown vẫn ngồi bất động trên ghế, mãi đến khi có bàn tay của vợ ông đặt lên vai lay gọi ông vào dùng bữa tối, ông mới uể oải đứng lên đi vào nhà, nhưng trong đầu vẫn lởn vởn hình ảnh đứa con gái ban chiều. Thở một hơi dài, ông lại lẩm bẩm: mình từng làm trong hãng bào chế thuốc, nhưng sao chưa nghe ai nói có loại thuốc mang tên “hối hận” bao giờ.

 

Lê Thị Hoài Niệm.