Nơi tôi ở, n Bên này bờ Thái bình dương xa thẳm, một nơi chốn thật yên
bình, nơi mà người dân được quá nhiều tự do (vẫn có ít điều cần giới hạn) từ
trong nhà ra tới ngoài xã hội, một nơi rất đông người Việt tị nạn đang sinh sống,
nơi có quá nhiều phương tiện truyền thông, báo chí phục vụ “Free” cho đồng
hương. Bởi lẽ đó, mỗi năm nhân ngày “quốc hận tháng tư đen” ban chấp hành cộng
đồng (có ứng cử-bầu cử đàng hoàng), vẫn tổ chức tưởng niệm ngày đau buồn đó.
Nhưng bên
cạnh những uất nghẹn thương đau, cần và cần thiết phải thắp những nén hương, ngọn
nến ngồi im lặng mà tưởng niệm, thì các tổ chức, các hội cựu quân nhân muốn qui tụ đồng
hương lại càng đông càng tốt, nên hầu hết phải “mướn ca sĩ chuyên nghiệp” ở các
trung tâm băng nhạc lớn về. Có những ca sĩ hát rất hay, nội dung bài hát nói
lên đươc nỗi đau, hay tinh thần bất khuất của những chiến sĩ quân lực VNCH ngày
nào, dám hy sinh thân mình để bảo vệ quê hương, đất nước. Nhưng có vài ca sĩ lên sân khấu cũng không biết mình hát
cho ngày gì? hát bài gì cho thích hợp với nội dung ngày đau buồn, nên cứ tha hồ…
“nhiều đêm chăn gối bên người không quen
biết?” hay “lâu đài tình ái”…. chẳng hạn. Thật hết ý.
Lại có
quá nhiều chương trình trên truyền thanh, truyền hình nhắc nhở nhiều kỷ niệm về
tháng tư đen. Người ta kể đến những trận di tản từ miền Trung, miền cao nguyên,
những con đường kinh hoàng như tỉnh lộ 7 ở Hiếu Xương-Phú Yên, xác chết chồng
lên xác chết, những bãi biển xác người trôi lềnh bềnh, phần tấp vô bờ thì ít,
mà làm mồi cho cá chắc nhiều hơn. Đã bao nhiêu năm qua rồi, người ta vẫn còn
tìm gặp những bộ xương có mang những tấm thẻ bài còn nguyên vẹn vùi nông nơi
bãi cát (không hiểu anh linh của những chiến sĩ bị hy sinh một cách oan uổng, tức
tưởi này có sớm được siêu thăng, hay vẫn còn vất vưởng đâu đó vì một nỗi uất hận
chưa vơi? Một nén nhang thắp muộn vẫn là tấm lòng của một nữ thường dân còn nợ
ơn Người!)..
Người ta
kể lại những trận đánh kinh hồn của những chiến sĩ can đảm nhảy dù, địa phương
quân, nghĩa quân…, quyết tâm gìn giữ mảnh đất bao lâu nay đã tốn biết bao mồ
hôi nước mắt, bao xương máu, ngay cả thân xác của những người lính đã hy sinh.
Cuối cùng thì vẫn phải chạy và lột bỏ quần áo nhà binh và xin thường phục của
người dân mặc vào để chạy!!!!. (?)
Người ta
còn “sưu tầm” cả tiếng nói của vị “Tổng Thống cuối cùng” ban lệnh đầu hàng,
phát lại cho thính giả nghe. Có người nặng lời “chửi bới” quan ngài đã dâng đất
cho giặc. Phải chi ngày đó ông đừng có …bàn giao chính thể quốc gia cho cộng sản
? Dù biết rằng ngài đại tướng cũng chẳng làm được gì khi giặc đã vào …sát nách,
mà có những "ngài lãnh tụ", một đám quan to, tướng lớn lại yếu hèn đã
cuốn gói chuồn êm tự lúc nào. Bao nhiêu năm tháng nắm quá nhiều chức tước, binh
quyền mà không làm gì được, để bọn giặc Hồ đem chủ nghĩa cộng sản ngoại lai vào
tuyên truyền áp đặt lên người dân miền Bắc bấy lâu nay, giờ đang tràn xuống xâm
chiếm miền Nam và cái đám mệnh danh “trí thức miền Nam” cũng theo đóm ăn tàn, nối
giáo cho giặc. Người ta nhắc và nhắc những
kỷ niệm buồn đau, kèm theo những chuyến vượt biên hãi hùng, từ đường bộ đến đường
biển, xác người vùi trong rừng sâu Campuchia, xác làm mồi cho cá mập trên biển
cả và nhiều trẻ em, phụ nữ đã là nạn nhân của bọn hải tặc Thái lan dã man hung
tợn… Hằng năm và hằng năm tiếp nối chắc không bao giờ kể hết chuyện.
Người ta
hát những bài “Nhớ về Sài gòn, Sàigòn niềm nhớ không tên, Sài gòn vĩnh biệt”,
nghe cũng buồn ray rứt dù nội dung lời ca thường là những cuộc vui chơi, ca hát
ở vũ trường, và dù hiện tại người về Sài gòn hằng năm đông như đi chợ (?). Nhưng sao người ta cứ vẫn nhớ về Sài gòn nhỉ? Sài gòn làm
gì có trọn…tháng tư đen năm ấy ? Nghe nhiều người di tản vào Sài gòn sau ngày “
mất nước” trở về kể lại rằng cả tháng tư người dân Sài gòn vẫn còn chính phủ
VNCH, người dân vẫn tự do đi lại, vẫn hát vẫn hò, vẫn ngồi uống cà phê vỉa hè,
vẫn vào rạp REX xem xi-nê, có chộn rộn chăng là vì có một số người “lánh nạn cộng
sản” từ các miền đất nước chạy về, khiến những người có thân nhân đang ở nước
ngoài, những nhà giàu có, những người làm việc trực tiếp cho người Mỹ phải nôn
nao chạy đôn chạy đáo tìm đường thoát ra khỏi nước và họ đã ra đi rất sớm trước
ngày Tổng Thống (có quốc hội chuẩn nhuận)
tuyên bố đầu hàng.
Và nhiều
người còn thấm thía nỗi đau khi nghe được chính giọng nói của một người nhạc sĩ
nổi danh (nay về bên kia thế giới rồi), đã tỏ lộ nỗi mừng vui khôn xiết, đã “hồ
hởi-phấn khởi” tuyên bố ăn mừng trên đài phát thanh quốc gia vừa mới bị “tiếp
quản”, và kêu gọi mọi người dân đừng bỏ…cộng sản để ra đi, hãy ở lại dựng xây đất
nước với bọn chúng, rồi hăng hái hát suông bài “nối vòng tay lớn” của chính tác
giả. Tiếc thay! “ Em ra đi nơi này... mất hết! ”. Sài
gòn và cả nước mất hết, chứ không phải nơi này…vẫn thế mà “ngài nhạc sĩ” đã
bênh vực cho chế độ mới và một số ca sĩ vẫn ..lải nhải, tung hê!
Nhưng chắc
chắn phải nhắc đến Sài gòn, vì Sài gòn là Thủ đô của cả nước, nơi chính quyền đặt
dinh cơ để điều hành guồng máy lãnh đạo đất nước, nếu thủ đô mất vào tay giặc,
có nghĩa là đất nước, chính thể không còn nữa. Nhưng nếu nhắc đến tháng tư đen
ngòm, phải nhắc đến những tỉnh, những vùng đã bị quân cộng sản chiếm trọn tháng
tư, như Nha trang, thành phố biển thân yêu của chúng tôi, mới thấm thía được cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của ba chữ “tháng tư đen”.
Ngày đó.
Người di tản tràn đến, từng đoàn người, từng đoàn xe từ Ban mê Thuột,
Pleiku, từ Phú bổn, các tỉnh miền Trung đổ về vào những ngày giữa tháng ba. Trường
Nam tiểu học, nơi cô trò chúng tôi gặp gỡ hằng ngày, đã không còn bóng dáng học
sinh, vì trường đã biến thành “trung tâm tiếp cư”. Các thầy cô giáo chạy đôn chạy
đáo tìm thức ăn, gạo muối, quần áo, vật dụng cần thiết vv..vv để phân phối,
giúp đỡ những người đang xơ bơ, xấc bấc, lếch thếch, hốt hoảng buồn rầu đang ngồi
ủ rủ trong các phòng học làm nơi tạm trú.
Một buổi
chiều, vừa từ trường về, người bạn đã chạy ào vào nhà và báo tin: “cháu chị U
đã chết cháy rồi!”. Tin thật buồn với sự chết chóc đã đến gần sát. Người vừa ra
đi là một Pilot Trực thăng, và đơn vị đang hành quân ở BMT. Tàu
anh đã trúng đạn phòng không của địch quân, bùng cháy như cột lửa ở trên không.
Chạy đến nhà chị U, nhìn chị và bà con trong nhà khóc than, cả bọn chúng tôi vừa đến cũng chụm đầu lại
khóc.
Về nhà lại
gặp một người bạn không quân tìm đến thăm (là ba của các con tôi hiện tại), khi biệt
đội của anh từ Cần Thơ, biệt phái ra để phụ giúp với các đơn vị bạn. Đáng lẽ ở
căn cứ Pleiku, nhưng vì đơn vị trên đó cũng đã di tản, nên các anh lại kéo xuống
phi trường Nha trang. Ngồi nghe anh kể những bữa đổ quân khó khăn với quá nhiều
phòng không địch, những chuyến hành quân tiếp tế, và đặc biệt là cứu “dân chạy
loạn”. Từng đoàn người, đoàn người từ các tỉnh cao nguyên chạy về, phải đi bằng đường rừng, vì quốc lộ 21 đã bị VC chiếm mất từng đoạn. Họ băng
rừng, vượt suối bồng bế gánh gồng mà đi, có người đàn bà đã “sanh rớt” trên đường
chạy loạn, may mà Trực thăng đã nhìn thấy nên đáp xuống chở về nhà thương. Có hôm anh phải bay thật
thấp để hướng dẫn đoàn người đi lạc trong rừng sâu có thể đi ra con đường mòn lớn
hơn mà về được Khánh Dương (anh Th/tá ĐS Phước-Công binh, là một trong số “người di tản buồn” đã nhận ra tài xế “chiếc trực thăng cứu nạn”
trong những ngày gian khổ đó, nên “quí anh nhiều” ở những ngày
tháng sau này).
Nhiều người
đổ dồn về và cũng có lắm kẻ ra đi. Người Nha Trang cũng bắt đầu tìm đường tháo
chạy, bằng xe hơi, xe hai bánh và chủ yếu là ghe thuyền đường biển.
Một vài
ngày cuối tháng ba, trung tâm tiếp cư đã vơi người, một phần người tị nạn có
thân nhân đến đón về, một lớp nữa họ tiếp tục xuôi Nam, những Thầy cô giáo cũng
xôn xao nhiều vì người đi kẻ ở,
Từ làn sóng
radio phát đi chương trình tiếng Việt BBC Luân đôn, cho tin quân dân miền Nam đang
…thua xiểng liểng, quá nhiều nơi giặc chưa đến đã không còn người lãnh đạo? cơ
sở bỏ tan hoang. Và đường phố Nha trang vừa đón một lớp người mới đến, có một số “hung hăng, dữ tợn” vô cùng. Với súng
đạn có sẵn trên tay, họ có quyền cướp xe, bắt phụ nữ và làm nhiều điều xấu, người
ta bảo “họ là toán lính” vừa đổ bộ lên bờ từ tàu hải quân cặp bến cảng Cầu Đá???
Chẳng ai dám ra đường thường xuyên nữa, trong số đó có tôi, nếu không có việc gì cần và không có người
đàn ông đi chung.
Tâm trạng
hoang mang giữa đi và ở. Ở lại sẽ như thế nào trước tin đồn quân giặc quá dã
man. đàn bà con gái sẽ bị “rút móng tay”, bị bắt đi làm “hộ lý” cho
bộ đội, đàn ông con trai sẽ bị bắt đi tải đạn. Nếu lính tráng bị bắt, mạng sống
sẽ không còn, nhiều tin rất hãi hùng mà người thành phố phải để ý đến. Nhưng đi
thì đi về đâu? bằng phương tiện gì, nơi chốn nào để đến, hay cũng lang thang lếch
thếch như những đoàn người đang nối đuôi nhau trên quốc lộ số một kia đang thấy trên truyền hình. Cuối cùng
Ba Má tôi chọn giải pháp có chết thì cũng sẽ chết chung ở nhà mình, vì gia đình
quá đông người, lại có thêm mấy gia đình bà con ở vùng ngoài chạy vào tị nạn, mặc dù cá nhân tôi đã được người bạn sẵn dành
cho phương tiện để ra đi đêm cuối cùng của tháng ba khi đơn vị anh trở về căn cứ
ở miền Tây..
Buổi sáng
ngày một tháng tư, sau khi đưa người anh trai, nguyên là sĩ quan đang làm việc
tại bộ Tổng Tham mưu, là một trong những thành viên của phái đoàn về Nha trang dự họp với tướng Ph. mấy
hôm trước. Cuộc họp không đi đến đâu và cuối cùng phải trở lại SG. Quang cảnh
phi trường Nha trang hỗn loạn không thể tưởng tượng nổi. Cổng đóng, quân cảnh cầm súng
lăm lăm, có thể nã đạn vào ai đó bất cứ lúc nào, nếu không tuân thủ mệnh lệnh, người
và người chen lấn nhau, người la kẻ khóc, lớp trong lớp ngoài. May quá, anh tôi
vào được bên trong vì còn “sự vụ lệnh” và đang đi bên cạnh một “ông quan lớn”.
Tôi quay
đầu xe trở về nhà mà lòng buồn khôn xiết, chán nản tột cùng. Vừa về đến nhà, đã
thấy người bạn phi công phản lực vừa từ Phan Rang chạy về, anh nói muốn đến...từ giã tôi, anh hỏi tôi có muốn di tản không? vì không
còn nhiều thời gian nữa. Tôi đang nói lời chúc Anh trên đường về Sài Gòn được
bình yên, thì người
chị bà con tên Sương Mai xuất hiện, tôi đẩy chị lên yên sau chiếc xe Lambretta cùng đi
với anh, và “tặng” chị chiếc khăn quàng Hướng đạo sinh tôi đang đeo trên cổ để
chị làm kỷ niệm. Tôi nhìn theo mà mắt cay cay, miệng vẫn lầm thầm cầu nguyện
cho hai chị em đến nơi an toàn, dù gì,
chị cũng từng là “chị kết nghĩa” của anh ấy.
Mới tối
qua, ngay phòng khách nhà tôi, vài ông Tá cấp cao, vài ông úy cùng ngồi “bàn
chiến sự”. Họ “trấn an” ba má và gia đình tôi rằng: cả nhà đừng có lo, nếu có
chuyện xấu xảy ra, thì “Đèo Cả” sẽ là lằn ranh quốc cộng, chia hai phần lãnh thổ
như Bến hải ngày xưa. Chúng tôi nghĩ đó là những lời nói…vô thưởng vô phạt, nói để
trấn an chứ họ cũng đâu biết gì hơn. (sau này đọc được trong “Cuộc Đời Binh Nghiệp của ĐẠI
TƯỚNG CAO VĂN VIÊN- Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Lực VNCH do tác giả Đặng Kim
Thu viêt có
đoạn nói đến chuyện chia đất từ Đèo Cả là có thật. Xin trích:
Ngày
13-3-73, Tướng Trưởng được lệnh vào Saigon họp. Trong phiên họp tại phòng hành
quân ở dinh Độc Lập, có sự hiện diện của Thủ Tướng Khiêm, Trung Tướng Quang, và
tôi (ông Viên) TT Thiệu lấy cây viết gạch trên bản đồ VN, xóa vùng Cao Nguyên
và Vùng I, rồi vạch một đường từ Ban Mê Thuột đến Nha Trang, rồi nói rằng chúng
ta sẽ còn giữ phần đất dưới đường này. Từ đèo Cả trở ra Quảng Trị là phần đất
dành cho Mặt Trận GPMN. Ông Thiệu nói với ông Trưởng:
- “Đây là
chỉ thị của tôi. Phải thi hành, nhưng giữ bí mật. Không được nói lại cho ai!”
(có lẽ tin này rò rỉ ra ngoài.)
Xong buổi
họp, Tướng Trưởng theo tôi về văn phòng, có ý trình bày thêm về lệnh của ông
Thiệu. Ông Trưởng nói:
-”Tôi
không thể thi hành lệnh vừa rồi của Tổng Thống, vì tôi đã hứa với đồng bào ở
Huế là tôi sẽ giữ Huế. Xin Đại Tướng chỉ thị một tướng khác để làm việc đó.” )ngưng trích
Khi họ đi
rồi, ruột gan tôi héo hon quặn thắt, nhất là mỗi khi nghe tiếng máy bay cất
cánh rời phi đạo xé nát không gian, hay những tiếng trực thăng xành xạch rồi nhỏ
dần về hướng nam…
Cô bạn S.
hàng xóm nhà đối diện, xách một túi hành trang chạy sang, rủ tôi
cùng xuống bến Cầu Đá, vì “tàu hải quân”, mà anh trai của cô là Hải
quân thiếu tá trên đó, sắp rời bến cảng, tôi đành chúc cô thượng lộ
bình an, tôi không nỡ bỏ gia đình mà đi được.
Buổi xế chiều
đó, một người anh họ mặc đồ Lính đến gõ cửa, anh vô nhà mà cánh tay đang quấn
băng trắng dính đầy máu khô. Thì ra, lúc di tản từ ngoài Tuy Hòa vào, cả đơn vị
bị thất lạc hết, anh bị trúng đạn, tìm đường về nhà tôi để buộc lại vết thương.
Nhưng chưa ngồi yên chỗ, anh đã nhìn dáo dác và bắt gặp mấy chị em tôi đang ngồi
ủ rũ, anh hét lên: “sao không
tìm đường đi đi, bấy giờ ở dưới phố đang hỗn loạn lắm, cả một đám tù nhân hung
dữ vừa phá cửa nhà tù và tràn ra đường cướp phá!”
Cả nhà
tôi thất kinh, chưa kịp có phản ứng gì, thì một người hàng xóm chạy về la toáng
lên ngoài đường: ai có
con gái lớn hãy tìm cách trốn đi, cả một đám tù ở quân lao vừa mới tràn ra đường,
họ đang tủa ra nhiều đường phố cướp phá đó..
Không còn
chần chừ nữa, ba tôi vội vàng dắt chiếc Yamaha của tôi ra cửa, chiếc xe tôi vừa
đưa anh tôi đi buổi sáng, vẫn còn đầy bình xăng, chị lớn tôi chạy đi xúc vài ký
gạo, hai em tôi
đi bốc vội vài bộ quần áo, cái mền, thế là 3 chị em phóng lên xe, sẽ chạy vô Suối dầu, nơi ba
má tôi có khu vườn trồng nhiều cây ăn trái,
với căn nhà nhỏ.
Trong cơn
hỗn loạn, muốn tìm con đường sống, tiềm năng sức mạnh trong mỗi một con người
đã thể hiện, vượt qua những sinh hoạt thường ngày mà không ai ngờ tới. Với cái
xe nhỏ xíu, mang đến ba con người, thêm gối mền gạo mắm, vậy mà tôi cũng phóng
nhanh qua mấy con đường để ra xa lộ số Một, rồi len lỏi, luồn lách qua một đoạn
đường dài lên Thành với hằng hà sa số xe cộ từ xe GMC, xe Jeep, xe hàng, xe
nhà, xe hai bánh đủ loại..…và một đoàn người gồng gánh, vai mang, gậy chống,
võng khiêng… rồng rắn nối đuôi nhau. Họ âm thầm lặng lẽ lách qua đoàn xe đang
nghẹt cứng trên đường.
Lách mãi,
tôi cũng qua được đoạn đường Thành, đang dáo dác tìm lối lách nữa, bỗng nghe có
tiếng gọi tên mình. Thì ra, nguyên cả một đoàn xe của Trung tâm huấn luyện Lam
sơn cũng trong đoàn người di tản, và đang di chuyển nhích nhích nơi đây vì kẹt
cây cầu đàng trước.
Chia tay
với quí anh trong bịn
rịn, những người đã từng đem mồ hôi và nước bọt để huấn
luyện cho những tân binh trước khi ra chiến trường chống địch, giờ này
cũng đang tham gia vào cuộc di tản vô trật
tự, một cuộc “rút chạy” mà không biết sẽ ra sao ngày sau???
Mới lách luồn một đoạn
ngắn, lại có ai gọi mình, quay lại gặp người anh lính Đại úy làm
trong ...Quân sự mấy bên gì đó, con của người cậu ruột cũng trong
đoàn người di tản, anh nói “ba đứa lui ra sau, anh...lái xe cho!”, nhưng anh vừa ngồi lên yên, thì cái bánh
xe...xẹp lép, thế là anh...leo xuống, chúng tôi chạy tiếp.
Xe chạy
và chen lấn mà chạy, qua ngang cầu Lùng, một cảnh tượng thương tâm xảy ra, một xe Honda đàn ông, hình
như chở đến 7 con người ta lớn nhỏ(?), người tài xế bị lạc tay lái và ngã cái rầm,
người văng tung ra, nhưng
đoàn người đang ở trên cầu cứ tránh qua mà chạy, coi như chẳng
thấy gì và cũng
không thể dừng lại khi mà đoàn xe sau cứ lao tới. Tình nhân
loại, lòng nhân ái đã “bị bỏ quên” khi chính mình cũng đang đi tìm lối sống? Hóa
ra hình ảnh mấy hôm trước trên TV còn chiếu cảnh những người…đạp đầu nhau để
tìm một chỗ ngồi trên tàu di tản là chính xác. “Mạnh được yếu thua” đang diễn
ra mọi nơi mọi chỗ trên quê hương tôi? Và trong đó có cả chính bản thân tôi. Buồn
thật!
Cơn mưa
chiều hung bạo, xối xả tự nhiên đổ ập xuống. Mưa và gió đập rầm rầm vào mấy bức
vách của căn nhà nhỏ, nơi chúng tôi vừa đến chẳng bao lâu. Những hạt nước mưa nặng
nề rơi xuống như muốn cuốn trôi dùm nỗi uất nghẹn trong tim của những con người
bất lực, đang thua chạy mà không biết tại sao mình bị thua? Nhìn ra đường, đoàn
người ướt nhẹp vẫn lóp ngóp đi hai bên lề dưới cơn mưa, xe cộ vẫn chen nhau mà
chạy. Đoạn đường Suối Dầu này, ngoài những khu vườn trồng
cây ăn trái với căn
nhà nhỏ để ở tạm, không có nhà cửa hai bên đường, nên người đi bộ không thể nào
có chỗ núp mưa, nên họ cứ lầm lũi mà đi, như những đám ma trơi mùa tháng bảy…(?)
Chiều
xuống dần, mưa tạnh bớt, một người nhà vườn bên cạnh chạy
sang, họ yêu cầu chúng tôi góp tiền mua chiếu để chôn hai người vừa bị xe tông
chết ở trên quốc lộ I. Lúc
này đoàn người di tản đã đi về phía trước, chỉ còn những xe nhỏ
chạy vụt qua. Thương thay hai người Lính đèo
nhau trên chiếc xe Honda, và đã bị chiếc xe nào đó đụng phải, họ ngã xuống đường
và chết liền tại chỗ, máu loang đỏ cả mặt đường trộn lẫn nước mưa, Dù sao hai
người Lính này vẫn có được nén nhang cúng bái và nấm mồ dù chỉ đắp bằng đất, và
cả tên tuổi ghi rõ bằng những mảnh gỗ đóng
trên đầu mộ.
Sáng ngày
3 tháng tư, anh lớn tôi vào gọi
về vì “quân giải phóng” đã vào chiếm thành phố Nha trang hôm qua. Để hai em tôi ở lại trong
vườn vì người đã đem thêm gạo mắm cho các em đủ sống một thời gian, vì về ngoài
NT đang lộn xộn lắm. Riêng tôi phải về vì dưới phòng Giáo dục, “chánh quyền mới
đã tiếp quản” và cho người đi lùng sục từng nhà kêu gọi các Thầy cô giáo “không
di tản” phải ra trình diện gấp. Anh tôi nói có một nhóm người đã ra tận đèo Rù
Rì để đón mừng “Cách mạng"(?), và hú hồn vì chúng tôi đã đi thoát đêm đó. Nếu ở lại nhà, không biết chuyện gì sẽ xảy
ra, khi mà đám tù nhân hình sự, chuyên cướp của giết người, lẫn những người tù
“bất trị” ở quân lao họ túa ra đường phố, đến phá cửa những nhà buôn nào họ
nghĩ là có thể cướp được, nhà nào có con gái họ bắt để hãm hiếp (?). Về sau có nhiều người kể lại, các cô gái phải
chui trốn ở những nơi dơ bẩn nhất, trên gác xép, dưới gầm giường, nhà xí v..v…Cũng
hên là sau khi vơ vét được mớ tiền của thì họ bỏ đi, cùng lúc, những căn cứ
quân sự, những cơ sở chính quyền, nhà dân bị bỏ trống, đã bị nhiều nhóm người
khác nhau đến “hôi của” đốt phá. Thành phố đã hỗn loạn giờ thêm cảnh điêu tàn,
nhếch nhác..
Bấy giờ mới
thật sự là những ngày hãi hùng của “tháng tư đen” khi bộ đội miền Bắc đã đem xe
tăng vào thành phố. Những chiếc xe “molotova” kềnh càng, lù lù chạy ngang chạy
dọc trên đường, trên xe chở đầy những bộ đội mặc quần áo màu cứt ngựa và nón cối
đội đầu, cả người và xe đều cắm đầy lá như những “cánh rừng “ biết đi. Người
dân bình thường đứng nhìn “quân giải phóng” xuất hiện trong lo âu sợ hãi,
trong khi những tên nằm vùng xuất đầu lộ diện
ăn mừng chiến thắng (?).
Giọng nói
“chanh chua–chát chúa- the thé- sắc lạnh” từ miền Bắc xa xôi nào đó truyền đi
qua làn sóng đài phát thanh, với “bảy điểm
của ủy ban quân quản” cứ làm người nghe rờn rợn, nổi gai ốc cùng mình, và phát thanh những bài hát có lời
"ca tụng bác Hồ" với giọng the thé đi lên, đi lên chói óc. Những lúc
ra đường gặp phải những bộ đồ màu cứt ngựa, đôi dép râu và cái nón cối mặt ngơ
ngơ ngáo ngáo, nhìn xiên nhìn xéo trầm trồ, xuýt xoa, cứ vừa đi vừa nói chuyện
với nhau bằng chất giọng lơ
lớ như người miền núi mà thở dài ngao ngán và tự hỏi: những người chiến thắng
đây sao?. Mặc dù người thành phố đã cải dạng, quần áo thường ngày đã đem giấu kỹ,
chỉ còn những bộ đồ đen đúa hoặc nâu đà, nhưng vẫn bị nhìn với cặp mắt soi mói,
ác cảm.
Chuỗi ngày
tiếp theo thành phố bị tắt ngúm đèn điện ban đêm, nhà nhà đóng kín cửa, leo lét
ngọn đèn dầu. Tháng tư đen đúng nghĩa. Thành phố trống vắng, hoang lạnh tiêu điều.
Mới hôm nào những con đường phố đông vui nhộn nhịp, những bộ quân phục từ các
quân trường, từ nhiều đơn vị về đây, trai thanh gái lịch dìu nhau đi trên phố,
trên bãi biển những buổi chiều lộng gió, phố xá sáng trưng, sinh hoạt tấp nập, giờ
còn lại một thành phố chết, vắng hoe. Đã vậy những tiếng súng phòng không được
đặt khắp nơi cứ bắn lên nổ rền trời, tiếng súng đại bác bay xé không trung, xé
trời và xé cả lòng người. Buồn đau và sợ hãi là tâm trạng của những người dân
trong thành phố, dù mọi sách báo, tài liệu, của cải hiếm quí đã đem dấu cất,
phi tang (nhà tôi đã chôn nguyên một “thùng phuy” sách
báo cũ đủ loại ở sân sau nhà, về sau đào lên cho bạn bè...mượn coi,
và bị ...mất hết).
Những tiếng
máy bay ầm ĩ bay trở lại thả bom vào mỗi đêm, nơi đã bị bắt buộc phải treo cờ
“Mặt trận giải phóng miền Nam”. Những tiếng nổ long trời lở đất cứ dội lại, rền
ra xa, những giấc ngủ chập chờn, khi trên đài phát thanh, “quân giải phóng” ra
rả loan tin “bọn Ngụy” càng ngày càng thất trận. Lệnh của “uỷ ban quân quản”
ban ra: “cách mạng sẽ khoan hồng nếu quân dân cán chính Ngụy miền Nam ra đầu
thú”. Một người anh họ, chỉ là một “cán bộ xây dựng nông thôn” của một xã ngoài
Phú yên, chạy vào nhà tôi tạm trú, ba má tôi lo sợ đã bảo trốn đi vào Nam,
nhưng vì nghe lời gia đình của vợ bảo ra trình diện sẽ được “khoan hồng”, đã bị
“cách mạng dẫn độ” về T.Hoà và bị “chặt đầu” không chút nương tay. Ngày liệm
xác phải chờ xin lại.. cái đầu bị chặt để
ráp lại cho nguyên vẹn hình hài hầu mai kia còn... “ăn cúng”. Có người
thanh niên ăn trộm vặt vì đói quá, bị “bộ đội” bắt đem ra bãi biển “xử tử” để
làm gương, dù người bị mất cắp “năn nỉ van xin bộ đội khoan hồng đừng xử bắn”.
Nhưng những con người vô cảm kia vẫn thi hành mệnh lệnh. Người dân thành phố cảm
nhận được nỗi mất mát tột cùng nhưng không biết làm gì hơn.
Những Thầy
Cô giáo như chúng tôi, vào những ngày sau đó, buổi sáng bị bắt buộc phải trở lại
trường để “học tập chinh trị”. Nhưng buổi chiều không đến trường, cứ khoảng hai
giờ là leo lên xe đạp, đèo theo chiếc mùng và vắt cơm nguội, đạp xe lên tận
trên Thành, khu nhà ở “cải lộ tuyến” hoặc khu Đại Điền xin ngủ nhờ qua đêm, chọn
những gia đình có “hầm trú ẩn”. Vì cha mẹ già sợ bom đạn từ “phe ta” trở về thả
bom, tai bay họa gửi chẳng biết đâu mà tránh.
Dù đã đi
khỏi thành phố, nhưng nhiều khi đang ngủ chập chờn, còi báo động rú lên liên hồi,
dai dẳng đến rợn người, thế là ba chân bốn cẳng phải chạy chui vội xuống hầm,
ngồi bó gối chờ cho đến sáng, khi biết chắc rằng “máy bay Ngụy” không còn trở lại
thăm viếng tặng bom.
Hỡi ơi!
Khi “rút chạy”, những người “có thẩm quyền” đã không chịu hủy bỏ những gì cần hủy,
như tài liệu văn phòng, những hồ sơ cần thiết, hay những cây cầu chiến lược để
xe giặc khỏi đi qua. Giờ đã lọt vào tay giặc, họ ra lệnh đem bom về thả chính
nơi họ vừa mới bỏ ra đi. Thành phố như đã chết, giờ càng ghi đậm thêm nỗi chết,
khi quá nhiều nơi “ăn” bom đạn của chính quân mình, từ ngoài xóm Bóng, đến đường
Tô hiến Thành, và cả ngôi trường thân thương của chúng tôi cũng lãnh nhiều quả
đạn. Gia đình một người “tị nạn” chưa kịp tìm phương tiện trở về lại quê xưa,
thì người vợ trẻ và đứa con trong bụng đã chết tức tưởi ngay trong phòng học lớp năm của cô Q hay Y(?), phía bên dãy trường Sư phạm Nha Trang (hồi đó S P N T chỉ có hai lớp học, nên họ
dùng mấy phòng của trường Nam, và chúng tôi là những thầy cô giáo
dạy và “chấm điểm”cho môn “sư phạm thực hành”), vì quả đạn trúng sập căn phòng
.
Buổi sáng
trên đường đi đến trường để dọn xác chết và gạch ngói ngổn ngang, chiếc xe đạp
cà tàng của chị bạn tên
T.(có chồng là sĩ quan Hải quân đã không liên lạc được) bị đứt
dây sên, hai chị em vừa dắt xe chạy mà vừa khóc ròng vì đường
vắng tanh đến lạnh
người, lại tủi thân, xót phận của người bỗng chốc thành kẻ thua cuộc, lại phải
đi ngang qua khúc quanh trước cửa trường Nữ trung học, nơi có ba xác chết nằm sấp,
thật hôi thối, mà chưa có người dọn dẹp khiêng đi mai táng….
Thú thật
hồi đó cứ mỗi một đống gạch vụn khiêng đi đổ, là khiêng đổ cả mồ hôi và nước mắt,
nhưng đã giữ lại trong tôi nỗi đau và sự tức giận đối với những người vừa là bạn,
là phe mình mới hôm qua. Những quán ăn Thọ Lộc, Hoài Linh còn ấm cái ghế ngồi,
chẳng lẽ hôm nay đã trở thành…thù địch?. Thương và giận luôn giằng co theo từng
bước chân đi. Bao nhiêu ngày của tháng tư đen, là ngần ấy ngày chúng tôi sống
trong lo âu sợ hãi, khủng hoảng tinh thần. “Cách mạng” luôn đưa người đến tận
nhà “bắt buộc” các thầy cô giáo phải đến trường, nhưng có lúc mới đi đến giữa
đường đã phải chạy về vì tiếng súng phòng không nổ đụp đụp liên hồi. Mãi đến
khi trên làn sóng đài phát thanh chát chúa oang oang: “Mặt trận lâm thời giải phóng miền Nam thông báo là quân dân ta đã chọc
thủng chốt cản của bọn Ngụy tại Phan Rang và đang tiến nhanh theo gót bọn chúng
đang tháo chạy…” thì không còn nghe tiếng ù ù của “những chuyến bay đêm!”.
Nhưng ngoài nỗi đau, sự hoang mang sợ hãi giờ mang thêm niềm thất vọng tột cùng.
Ôi tháng
tư đen! đời đen như cục than đen bắt đầu từ những ngày tháng đó. Cho đến một
ngày cuối tháng tư cả nước cùng nghe chung một tiếng loa của “phe thắng trận” với
“đại thắng mùa Xuân”! Những ngày mà “đôi
dép râu dẫm nát đời son trẻ, nón tai béo che khuất nẻo tương lai” bắt đầu một
chế độ mới. Khi mà nửa đêm về sáng của ngày mồng một tháng 5, người dân thành
phố Nha trang đã bị những “cách mạng 30” đến gõ cửa từng nhà, kêu gọi tập trung
tại sân vận động để “chào mừng lễ lao động” nhưng thật sự là ăn mừng chiến thắng,
khi mà những loa phóng thanh bắt đầu chỉa vào nhà dân lúc 5 giờ sáng, bắt người
dân phải nghe những lời ca…chói óc, the thé ca tụng “bác và đảng”( những Thầy Cô giáo về sau cũng phải hát
thuộc lòng những bài hát đó ở trong trường để dạy lại cho học trò,
nếu còn...đứng lớp). Những bản tin thắng trận,
những “tội ác Mỹ Ngụy”…v…v được loan tải từng giờ, nghe mà ớn lạnh. Tiếp theo
là những ngày ăn cơm độn với gạo mục, bo bo, mì sợi, với mỗi tháng một cái tem
phiếu đi cửa hàng lương thực chờ chực cả nửa ngày mới mua được vài ký rau muống
già….. Người thì bị đi tù mút chỉ không biết ngày ra, quá nhiều gia đình ly
tán. Người tuổi trẻ bị bắt vào đội “thanh niên xung phong” lên rừng chặt cây lồ
ô, đi lao động khổ sai tiếp diễn, chịu bao nỗi khổ ảỉ đắng cay. Đã vậy thêm lớp
người mới mang băng đỏ, chuyên đi lùng sục bắt bớ những người “chưa chịu tuân
thủ” lệnh của chính quyền mới, vào nhà vơ vét tài sản của dân lấy cớ tịch thu
“sản phẩm đồi trụy của Mỹ Ngụy”...vv..vv, đã tạo thêm nỗi kinh hoàng cho những người dân ở thành phố vừa bị đổi
chủ…, những tháng ngày không thể nào quên, và mãi mãi không dễ gì quên….
Lê Thị Hoài
Niệm.