Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

 

        B À M Ẹ NU ÔI


          Lê thị hoài niệm

          Tối nay vô tình mở tv, trên màn ảnh nhỏ đang chiếu một phim Phi luật Tân, nhưng hoàn toàn nói tiếng…Việt nam. Đoạn phim tả cảnh một cặp nam nữ đang “thỏa thuận” với nhau về một vấn đề hệ trọng. Người con gái hứa sẽ …lấy người thanh niên, với điều kiện người thanh niên hiến tặng một trái thận cho “người cô yêu”, người đang nằm trong bệnh viện chờ chết, nếu không có người hiến tặng thận để thay vào sẽ…ra đi. Vì người bị bệnh cũng là anh em song sinh của ngưòi thanh niên kia. Người thanh niên hứa tặng quả thận đã bị bà ngoại ruột đem bán cho nhà giàu nọ lúc còn rất nhỏ vì nhà nghèo, và hiện tại, chàng đang được sống trong gia đình giàu sang sung sướng, có đủ mọi thứ, kể cả tình thương của ông bà ngoại nuôi, không chỉ tình yêu thương hết mực của cha mẹ nuôi.


          Dẫu biết rằng người con gái không hề yêu mình, và tuyên bố dù có chết cũng vẫn “không yêu chàng”, vẫn yêu say đắm người đang nằm trong bệnh viện! Ấy vậy mà người thanh niên vẫn cứ …yêu  cuồng si, vẫn cãi lại lời “bà mẹ nuôi”, hứa sẽ tặng quả thận cho người cần, sau khi đám cưới với người con gái. Và dù gì thì người bệnh cũng là anh em của chàng, cùng gia đình máu mủ ruột thịt.


          Dù mẹ nuôi chàng ngăn cản, năn nỉ cỡ nào, than khóc cỡ nào, phân tích cặn kẽ cỡ nào, chàng ta vẫn tuyên bố thẳng thừng: “nếu chọn giữa hai người, thì người chàng ta chọn sẽ là cô gái chứ không phải bà mẹ nuôi!”


          Xem xong đoạn phim, tôi thật buồn. Dù biết đó là phim ảnh để …giải trí, nhưng cũng có phần nào phản ảnh sự thật bên ngoài đời. Những đứa con nuôi, đã được người mẹ nuôi khổ cực trăm bề để săn sóc từ tấm bé, mớm cho từng muỗng sữa, thay cho từng cái tã lót, ẵm bồng lo lắng thức đêm thức hôm những khi trái gió trở trời, tập cho từng bước đi, thương yêu, săn sóc từng bữa cơm, giấc ngủ, manh áo tấm quần. Đến khi chập chững đi vào trường học, cũng phải chọn cho ngôi trường nào tốt, giáo dục cho con nên người hữu dụng cho xã hội. Nói chung là bao nhiêu tình yêu thương, cha mẹ nuôi đều dồn hết cho đứa con của mình, chỉ khác là không tự banh ruột sinh ra. Vậy mà khi biết được gia đình cha mẹ ruột, những người chỉ có công mang trong bụng chỉ chín tháng mười ngày, khi sanh ra rồi...thảy cho người khác cưu mang không hề luyến tiếc, lại còn được “ẵm” một món tiền lớn để...sinh sống( bn con?). Ấy vậy mà người con nuôi vội vàng “vứt bỏ” ngay tấm chân tình của người mẹ nuôi trong ngần ấy năm dài. Đau xót thật.


Từ chuyện phim ảnh, gợi nhớ trong tôi một câu chuyện thật thương tâm ngoài đời*, khi người chị họ của chồng tôi từ bên Pháp sang thăm chơi năm trước, đã kể lại hoàn cảnh đau xót của người hàng xóm của chị, và người “con nuôi” bội bạc của họ, trước khi chị đi sang Pháp định cư. Đó là một người thanh niên trẻ trung mà chồng tôi cũng có lần gặp mặt khi đến viếng thăm nhà chị trước năm 75.


           Xóm nhà chị ngày xưa ở vùng Tân Định, vùng đất rộng người thưa, còn nhiều đầm lầy, nhà cửa không mấy sầm uất. Nhưng khi có người “di cư” từ miền Bắc vào khoảng năm 54, thì người ta chọn khu vực này để làm ăn, sinh sống cũng khá đông, trong đó có gia đình hãng sản xuất dụng cụ “xây cất nhà cửa” của ông bà “Từ Tâm”*

        Khi gia đình đến đây, họ không còn trẻ lắm, nhưng chưa thấy có con cái gì, về sau cả xóm đều biết “ông” không thể có con.


        Thế là họ có ý đi xin “con nuôi”. Nhưng thời buổi bấy giờ khu vực mới mở mang lập nghiệp, người dân còn hiền hòa, xóm láng giềng gần coi nhau như thân tình, ruột thịt, không phân biệt kẻ Bắc người Nam, con người được quí trọng, nhất là con nít, đâu có ai...dư con để mà cho.


          Nhưng rồi một hôm ông bà vui mừng báo tin cho hàng xóm biết là họ vừa xin được một đứa con nuôi. Một đứa con trai đâu chừng hai ba tuổi, con của một gia đình nghe đâu ở tít bên cầu chữ Y, nhà nghèo mà người cha thêm tật cờ bạc, bằng lòng cho họ để đổi lấy một số tiền …

        

          Bà Mẹ nuôi mừng vui lắm lắm. Bà khoe cùng với bà con trong xóm rằng bà đã …xin được đứa con trai thật kháu khỉnh, dễ thương. Bà nghĩ đến nay mai trong nhà bà sẽ có tiếng cười, tiếng nói của trẻ thơ chắc là vui nhộn lắm. Rồi mai kia mốt nọ, thằng con lớn lên sẽ là nguồn an ủi vô biên cho ông bà, đỡ đi nỗi cô quạnh khi  nó lập gia đình, sẽ có thêm một đàn cháu, chắt, để rồi khi tuổi về già, sẽ có người...thắp nén nhang trên bàn thờ khi ông bà qui thiên về với tổ tiên.

           Bà tưởng tượng và khoe với hàng xóm nhiều điều thú vị khi có một đứa con, bà sẽ cố thể hiện tình mẫu tử dù không sanh nhưng có dưỡng. Từ khi có cậu bé về nhà, bà Tâm không thường xuyên ở ngoài tiệm buôn nữa, mà thỉnh thoảng bà ra rồi lại chạy về nhà, cố ý thăm chừng cậu nhỏ, xem nó có chơi đùa vui không với những món quà nhỏ bà mua cho cậu? có ăn uống đầy đủ không? bà vú nuôi có canh chừng để cậu khỏi té ngã không? Nói chung là bà cắc ca cắc củm lo lắng để nuôi cậu bé được đầy đủ mọi thứ từ tấm bé trong niềm yêu thương và vui thú. Khi cậu bé được vào trường mẫu giáo, bà Tâm đã chọn cho cậu một ngôi trường tư thật tốt, và chính bà hằng ngày đưa cậu đến trường và đón về sau mỗi buổi học. Cậu con nuôi lớn lên trong sự thương yêu, chìu chuộng hết mực của cha mẹ nuôi. Có những buổi chiều, người ta còn thấy ông cha nuôi cõng cậu con đi chơi lòng vòng trong xóm cười nói râm ran.



        Từ nhỏ đến khi trưởng thành, cậu ta được cả xóm gọi là “cậu ấm”, vì cậu luôn có mọi thứ mà cậu muốn. Ngay từ khi còn ở bậc trung học, ngoài những gìờ học tại trường, ông bà Tâm còn mướn thêm “gia sư” về kèm cho cậu ấm học. Cả xóm ai cũng biết ông bà Từ Tâm thương yêu chìu chuộng cậu ấm đủ điều, cậu đi học có xe hơi đón đưa, dù ngày nắng hay ngày mưa, “cậu ấm” cũng chưa từng bị một giọt mưa rớt trên vai áo, đến nỗi đám con gái trong xóm cũng phải than rằng “cậu ấm” ấm quá làm sao biết làm cây tùng, cây bách cho các cô nương tựa lỡ một mai lọt vào mắt xanh của cậu. Rồi khi vừa đủ tuổi trưởng thành, ông bà Tâm mua cho cậu chiếc xe Honda mới toanh, mỗi lần cậu rời nhà là cả xóm đều biết vì cậu cứ cầm tay ga mà…rú liên hồi trước khi rời khỏi xóm.



             Cậu ấm càng sang thì bạn bè cũng lắm, họ đến nhà cậu thật….đông vui, ông bà Từ Tâm thương con nên cũng chìu chuộng các bạn của con, thỉnh thoảng họ mở tiệc vui chứ không đến nỗi quậy phá để cá xóm phải than phiền. Đến khi cậu thi đậu Tú tài toàn và thi đậu luôn vào trường Kỹ thuật Phú Thọ, thì cậu được cha mẹ nuôi lo cho đi du học Tân Tây Lan. Phải nói là cậu ấm thật có phước đúng như cái tên gọi. Trước ngày đi, mẹ nuôi của cậu còn mời cả “vũ sư” về nhà dạy cho cậu ấm nhảy đầm, một môn nghệ thuật mà theo cậu, không thể thiếu đối với người “văn minh đi du học”. Và trong những ngày chờ đợi lên đường, thì tại nhà cậu, có một người đàn bà lớn tuổi, cứ lui tới to nhỏ với chị người làm, cuối cùng thì cậu ta được biết đó là …mẹ ruột của mình, người chỉ tốn công sanh, nhưng chưa một ngày nuôi dưỡng, dạy dỗ cho cậu  thành đạt như hôm nay, nhưng vẫn là mẹ của cậu. Cậu mừng rỡ ra mặt. Điều đó cũng tốt thôi.


          Ngày cả nước tan hàng, rã đám, cậu ấm còn ở tận bên Tân tây lan dù đã học ra trường rồi. Tài sản của cha mẹ nuôi cậu bị đánh sập vì thuộc thành phần ‘tư sản mại bản”. Chính quyền mới cướp lấy sạch sành sanh cơ ngơi, hãng xưởng, may mà họ còn chút ít của cải cất giữ và căn nhà nhỏ nên vẫn sống còn..Cha cậu buồn rầu nên sanh bệnh mà mất. Cậu ấm vẫn bặt tăm hơi.


          Không hiểu bên nớ cậu ấm có bạn gái, vợ con gì chưa, mà ngay khi có phong trào nhà nước mở cửa, thì cậu ấm trở về. Lúc này bà mẹ nuôi nghèo rồi, chỉ còn có mỗi căn nhà nhỏ để ở, nhưng chẳng thấy cậu ấm giúp đỡ gì thêm. Nghe đâu cậu đã làm đơn “bảo lãnh” cho cha mẹ ruột sang Úc (?), nơi cậu ấm đang định cư (không hiểu làm thế nào mà cậu bảo lãnh được, có lẽ bà mẹ nuôi vẫn giữ lại họ cũ của cậu?)


          Bà mẹ nuôi vẫn thương đứa con mình bao nhiêu năm nuôi dưỡng, dù gì vẫn là “tình mẹ con”! Bà đi tìm người “giỏi giang” để giới thiệu cho cậu con trai mình cưới làm vợ. Nhưng tiếc thay, người bà muốn thì cậu không ưng, và cuối cùng, một người con gái khác đã là vợ cậu. Bà mẹ nuôi buồn lắm, nhưng đâu có làm gì được.


          Cậu trở về nước Úc sinh sống và bảo lãnh vợ sang, không có chút lo lắng gì cho bà mẹ nuôi, dù lúc này bà đã già và khốn khó về tài chánh. Nghe đâu sau đó cả gia đình nhà vợ, được cậu bảo lãnh sang bên Úc sống đời tự do, sung sướng, chỉ trừ một người không được gì cả, đó là…bà mẹ nuôi. Nếu phải nói theo thuyết nhà Phật, thì kiếp trước bà…vay, nên kiếp này phải…trả cho xong nợ??? Thương thay!


          Những ngày cuối đời, bà mẹ nuôi bị bệnh, may nhờ có một  người cháu họ trai từ ngoài miền Bắc vào săn sóc, nhưng người này cũng …không được bình thường mấy, khùng khùng; khịu khịu nên con gái chẳng ai ưng. Nhưng nhờ có căn nhà của bà cụ còn có chút giá trị, nên có người con gái trong xóm bằng lòng lấy người cháu họ của bà, và căn nhà sẽ là nhà của họ. Tội nghiệp, bà cụ lúc này đã già cả, bệnh hoạn, lại bị người cháu dâu …hất hủi, mắng nhiếc, chửi bới suốt ngày không coi bà ra gì cả. Bà cụ buồn lắm, nhưng người con nuôi thì ở tận đâu đâu không hề có tiếng…thăm hỏi. 


         Cuối cùng thì bà đã về lại miền Bắc, nơi bà từ bỏ để di cư vào Nam mấy chục năm về trước, hiện tại còn c người anh trai đã già lắm sống ngoài đó, bà sẽ về nương tựa nơi gia đình người anh. Từ đó đến nay, ch tôi không còn tin tức gì của bà Cụ nữa. 


       Thương thay thân phận bà mẹ nuôi! Và rất bất bình về hành động tàn nhẫn của người con nuôi vô ơn bạc nghĩa.

Lê thị Hoài Niệm

*ghi lại câu chuyện thật ngoài đời từ người chị họ kể mà cứ buồn mãi.     

*xin đổi tên tiệm buôn.

 

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2025

 Một số hình ảnh  ghi lại ngày các bạn hữu từ phương xa về tham dự đại hội Cựu học sinh liên trường Võ Tánh & Nữ trung học Nhatrang tại Houston ( ngày họp mặt đầu tiền17/10/2025) tại tư gia Hoài Niệm.










                     Vui đứng hàng thứ 5 từ bên phải, giữa hai bạn mặc áo đen.
 

Tiếc thương Hoàng Thị Vui khóa 8/ nhị 2.


Mới ngày nào Vui về Houston tham dự đại hội Cựu Giáo Sinh Sư Phạm Qui Nhơn, cả khóa 8 chúng mình chụp tấm hình chung tại nhà Tuyết, Vui ...vui vẻ cười tươi đứng giữa KimThoa và Phan Xuân, hai cô bạn thân yêu vượt cả nửa vòng trái đất sang Mỹ họp cùng chúng bạn...

Chúng mình đã có những giây phút cười vui thoải mái, nấu ăn chung,..kể chuyện chọc phá ngày còn sống trong nội trú.Nhất là đùa phá tên gọi bạn mình, " đặt chuyện " người đàn ông đưa vợ ra nghĩa trang, cứ...Vui ơi là Vui sao em nỡ bỏ anh ở lại một mình? vừa kể lể vừa khóc mà vui nỗi gì? Sao cứ mãi nói....vui? Thì ra người vợ tên Vui giống bạn mình.

Đúng là một đám bạn...già phá phách cười đùa, Vui cười thật thoải mái, nhưng ít góp phần vì Vui hiền lành nhất trong đám. Nhưng bạn ra đi thật rồi sao? Đâu có người bạn nào bên cạnh tiễn đưa lần cuối. Vui về sống với con gái tại DC, vì cháu không muốn Vui ở một mình, chỉ thỉnh thoảng mới liên lạc với bạn bè, chứ không mời bạn đến chơi nhà như lúc ở Kentucky.

Tất cả các bạn nghe tin buồn từ Lý, đứa nào cũng buồn hết đó Vui. Nhưng ngặt nỗi nước mắt rơi mà không nhịn được cười vì nhớ đến Vui.

Hãy yên nghỉ nhé Vui. Cầu nguyện linh hồn của Vui được yên nghỉ đời đời trên nước Chúa.

 


Thứ Hai, 8 tháng 9, 2025




CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG!

Lê Thị Hoài Niệm

Hồi tôi còn rất nhỏ, mỗi chiều đi học về ngang nhà bà Tư Hường, gặp lúc nhà bà mở toang cửa để vô tình nhìn vào, tôi đã vắt giò lên cổ chạy trối chết, vừa xách guốc chạy mà còn ngoái cổ nhìn lại xem có ai đó rượt theo không? Vì trên bàn thờ nhà bà ngay cửa chính, không có thờ hình ông Phật, ông Chúa hay ông Thánh nào cả, mà chỉ là một con mắt to tổ chảng, sáng quắt, cứ như là nhìn chằm chằm vào người đang đứng trước nó, có vẻ hăm doạ “hãy coi chừng qua nhé em!” Nhà Bà Tư Hường nghe đâu từ trong miền Nam ra đây làm ăn, bà có gian hàng bán trái cây dưới chợ. Về sau má tôi cho biết là nhà bà theo đạo thờ một con mắt, con mắt đó họ gọi là “THIÊN NHÃN”. Bà Tư là người Tây Ninh và theo đạo Cao Đài…thờ chính là Thiên nhãn..


Thời gian đi qua và tôi không còn cơ hội đi ngang qua nhà bà Tư nữa, vì đã vào ở thành phố Nhatrang. Để rồi một lần ham vui theo cô bạn đi rong trong thành phố, mỗi đứa một chiếc xe đạp đi nhong nhong, vô tình ngang một ngôi đền thờ, lần đầu tiên tôi thấy tên gì mà dài quá sức: “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Tòa Thánh Tây Ninh”. Đàng truớc có theo 3 lá cờ màu vàng xanh và đỏ. Hai đứa tôi tò mò dựng xe bên hông tòa thánh và bước vào trong, một lần nữa tôi…tá hoả tam tinh khi thấy độc nhãn nhìn tôi chăm chăm. Thì ra đã có lần chạy thục mạng rồi mà chưa ngán, lại đút đầu vô cái chỗ thờ Thiên Nhãn, Ừ thì tòa Thánh Tây Ninh Đạo Cao Đài mà. Thế là hai đứa từ từ lẳng lặng rút êm. Tôi thề rằng từ nay về sau …không bao giờ phải nhìn con mắt nữa, bị ám ảnh, sợ lắm.


Những ngày đi ghi tên học ở Sài gòn, vào thập niên 70, những người bạn có rủ đi thăm “Tòa Thánh Tây Ninh”. Họ nói nơi đó đẹp lắm, dù đường đi có hơi ngại, bị bọn du kích nằm vùng của “mặt trận giải phóng miền Nam” (cộng sản) đắp mô thường xuyên, nhưng đi trưa trưa có thể không bị ảnh hưởng, trong khi đường bay thì không có. Họ mô tả Tòa Thánh là một kỳ công của người xây dựng, rằng họ xây lên bởi những lời cầu cơ mà có, kiểu cách, kiến trúc, cảnh quan tất cả đều do…cầu cơ mà tạo thành. Bạn nói thì cứ nói, tả cảnh thì cứ tả nhưng tôi tỉnh bơ thì cứ tỉnh, vì không muốn bất quá tam ba bận sợ nhìn thấy…một con mắt thật to đó cứ như nhìn chăm chăm vào mình.


Nhưng tôi bắt buộc phải đến Tây Ninh. Không phải để đi xem Tòa thánh, một “kỳ quan” của nước Việt Nam thời bấy giờ theo như ý kiến của nhiều người đã từng  đến đó. Họ nói ở đó có một khuôn viên đất rộng vô cùng tận, và Tòa Thánh được xây dựng ở chính giữa, chung quanh rất nhiều những cơ quan hành chánh, để phụ trách những công việc hằng ngày, lại có những tên gọi nhẹ nhàng như ở trên ...thiên đình như là Hiệp Thiên đài, Cửu trùng đài, Thông thiên đài, Nghinh phong đài..., mà không có người vẽ lập lăng. Tôi đến Tây Ninh cũng không phải để đi xem “Tha la xóm đạo”, một vùng đất được đi vào dòng nhạc tình cảm của những người yêu nhạc thời bấy giờ, dù không biết vùng Tha la có gì đặc biệt. Bài hát “Tha la xóm đạo và Hận Tha la”, lời thơ của Vũ Anh Khanh được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc, đã khiến người nghe thật bồi hồi xúc động, thương cảm, tưởng tượng được mối tình nồng thắm của người chiến sĩ một lần hành quân qua làng và cô gái con chiên của Chúa. Nhưng rồi một ngày giặc giã lan tràn đến vùng đất Tha la, ngôi thánh đường đã không còn nữa, người con gái thơ ngây của xóm đạo ngày nào đã vĩnh viễn ra đi(?), người Lính trận năm nào vẫn còn miệt mài chiến đấu ở tận đâu đâu, để Tha la quạnh hiu, buồn bã khiến cho người khách lãng du cũng ôm một nỗi buồn thiên thu.


Tôi đến Tây Ninh vì phải “làm dâu xứ lạ” ấy mà!.

Ngày ấy tôi cũng ngại lắm khi biết chàng quê ở Tây Ninh. Nghe nói Tây Ninh “nắng cháy da người” cũng hơi làm chùn bước chân tôi. Lại nữa rất ngại nhà chàng theo đạo Cao đài vì nghe nhiều người nói đa số người dân Tây Ninh đều theo đạo nên mới về đó. Lời ông bà xưa thường nhắc nhở “Coi chừng ghét của nào trời trao của đó, hay chạy trời không khỏi nắng!” Dù không ghét nhưng sợ thì cũng gần như nhau. Nhưng biết sao bây giờ? Đúng là gia đình chàng theo Đạo Cao Đài và thờ “Thiên Nhãn” trời ạ, nhưng nhà chàng không thờ con mắt qúa to để người nhìn vào…giật mình sợ hãi. Ba má chàng cũng là những người có “chức sắc” trong đạo, nên tôi từng nghe tiếng niệm hương rất có vần có điệu như đọc thơ lúc trầm lúc bổng, cảm thấy hay hay dù không hiểu chi nhiều:Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp, Lòng nương nhang khói tiếp truyền ra, Mùi hương lư ngọc bay xa, Kính thành cầu nguyện Tiên gia chứng lòng, Xin Thần Thánh ruổi dong cỡi hạc, Xuống phàm trần vội gác xe Tiên, Ngày ngày đệ tử khấn nguyền, Chín từng Trời Đất thông truyền chứng tri, Lòng sở vọng gắng ghi đảo cáo, Nhờ ơn trên bổ báo phước lành….!) Lúc đám tang cha mẹ chồng, con cháu phải qùy lạy đến 108 cái lạy sau khi đọc kinh, nhưng may quá chồng tôi bảo chỉ ngồi lạy cũng được. Những người trong họ đạo họ…quỳ hay quá, chắc lạy nhiều nên…quen!

Tòa Thánh Tây Ninh nhìn rất đẹp và kiên cố thật. Chỉ cần nhìn lên trần của tòa thánh là thấy cả một khung trời tuyệt diệu. Không ngờ những người thợ ngày ấy (khoảng năm 1930, nghe nói đa số là người Campuchia) họ có nhiều tài đến thế. Không có lập lăng, bản vẽ, không mẫu mã gì hết, chỉ làm theo lời cầu cơ mà hình ảnh bên trong cứ như là của hoạ sĩ tài ba vung cọ.


Phải nói là khí hậu xứ Tây Ninh …nóng thật, nóng khỏi chê luôn, cho nên ông nhạc sĩ Trúc Phương không ngại gì mà đưa vào nhạc của ông rằng thì là “Tây Ninh nóng cháy da người, mà trận địa thì loang máu tươi”... Hồi đó, Tây Ninh cũng là điểm “nóng” của vùng gần biên giới, nghe đâu trong tòa thánh cũng là nơi “dung thân” của nhiều chàng thanh niên con nhà khá giả mà…ngại xông pha vào vùng lửa đạn, cứ vào tòa thánh làm “hiền tài” gì đó thì xong ngay, khỏi trận mạc gì cả. Nhưng “chàng” nhà tôi thì phải đi Lính, ra phục vụ tận ngoài Nhatrang, chứng tỏ không phải…con nhà khá giả, và phải thi hành nghĩa vụ người thanh niên thời chìến.


Ngoài Tòa Thánh, Tây Ninh còn có thắng cảnh là Núi Bà Đen. Ôi cái tên nghe sao mà…đen đủi, như đa số người dân ở đây, đất nóng khô cằn nên người dân hình như cũng khô khốc đen thui, hay có phần…gốc gác với người Campuchia?,. Nhưng sao tên núi không có tên gì thanh cảnh mà lại gọi bà Đen? Thì ra, ở đây có có một truyền thuyết rất ly kỳ, thương cảm. Tôi đọc được từ trên internet, Truyện kể rằng: tại vùng ven núi này có một gia đình khá giả, có cô con gái tên Thiên Hương cũng sắc nước hương trời, biết thêu thùa, chữ nghĩa, nên gia đình cô rất thương quý và rất nhiều chàng trai cũng đến dạm hỏi lúc cô đến tuổi cập kê. Và rồi một hôm cô đi lên ngôi chùa trên núi cúng bái, chẳng may bị một nhóm người hung dữ vây hãm cô định làm xấu, thời may có …anh hùng cứu mỹ nhân xuất hiện, và chàng trai đó được gia đình cô đền ơn nhận làm con rể nhà giàu, dù chàng mồ côi cha mẹ, nghèo rớt mồng tơi, nhưng chàng có văn võ song toàn nhờ vị sư trụ trì trên núi bao bọc, dạy dỗ. Thế rồi chiến tranh lan tràn, chàng phải tòng quân giết giặc (hổi đó theo Nguyễn Ánh đi đánh quân…Tây Sơn) để cô Thiên Hương ở lại nhà và cũng như lần trước, cô lên chùa cúng bái và bị bọn xấu làm nhục, kỳ này không may vì chẳng có người cứu giúp, nên cô bèn nhảy xuống hốc núi tự vẫn. Vị trụ trì trên chùa tìm được xác của cô và an táng dưới chân núi. Nhưng cô rất linh hiển, có lẽ vì chết oan và còn trinh nữ? Truyền rằng cô đã hiện lên đến…ba lần, lần đầu cô biến thành một người có mặt …đen sì, nhưng giúp đỡ rất nhiều người qua cơn khốn khó, nên được người dân ở đó rất tôn kính và thờ phượng. Lần thứ hai cô giúp mách nước cho Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm la xin cứu viện (Chuyện này chắc là người miền Trung như người viết…không thích mấy?) và sau nữa là mách nước cho Tả quân Lê Văn Duyệt(?)….Với những công trạng đó, người dân vùng núi Tây Ninh đã đặt tên ngọn núi cao nhất miền Nam này là núi …BÀ ĐEN(?). Và chính núi Bà Đen này cũng là nơi quân đội Mỹ đóng quân trên đỉnh núi, quan sát toàn vùng trong những năm chiến tranh khốc liệt. Nhưng “kỳ lạ” thay, lưng chừng núi lại là những nơi nằm vùng rất kiên cố của “mặt trận giải phóng miền nam”.


Đã có lần tôi cũng theo người Tây Ninh leo núi bằng cách bám vào những tảng đá để leo lên (Sau này có cáp treo, ròng rọc chạy mười mấy phút là đến đỉnh núi, có thể vào chùa mà cúng bái, lạy lục). Phải “phục” những người ngày trước đã bỏ công xây cất ngôi chùa rất khang trang, kiên cố trên đỉnh núi, nhưng với sức người, không biết họ làm cách nào mà đem được những gạch, ngói, xi măng, tảng đá to lên tận đỉnh núi để xây chùa. Khâm phục thật.


Sau này đường về Tây Ninh không còn bị đắp mô, đặt mìn như trước nữa. Hồi đó, mỗi lần từ Sài gòn đi Tây Ninh cũng mất mấy tiếng đồng hồ, vì cứ bị đắp mô trên đường, xe đò phải dừng lại để những người Lính gỡ bỏ bom mìn, lấp lại đường nếu bị bọn nằm vùng đào hố, phá hoại…, khổ sở vô cùng. Hồi đó đường đi là những con đường đất trải đá xanh, mà chân bò chân trâu in hằn đầy dấu vết vì xe bò phải chở củ sắn mì về nhà máy làm bột mì. Bây giờ đường lộ thẳng băng, có hoa giấy hai bên đường sặc sỡ. Xe chạy từ Sài Gòn đến Tây Ninh cũng chẳng còn xa là bao. Có đoạn chạy song song với con sông Vàm Cỏ đông cũng thơ mộng vô cùng. Những đám rừng cao su được trồng thẳng tắp dọc hai bên đường trông thật mát mắt không làm cho người đi trên đường sợ hãi như trước kia, khi mà những khu rừng cao su là nơi ẩn núp của bọn nằm vùng cộng sản. Mấy chục năm “ăn cướp” thành công, xây dựng lại cho dân dễ thở cũng là điều phải có.

Có điều, mấy chục năm trở về đi chợ Long hoa, rất gần nhà ngày xưa tôi về làm dâu xứ lạ, chợ vẫn lùm xùm, chung quanh chợ vẫn mãi...sửa sang, nhiều vũng nước lầy lội, dơ bẩn, khiến người đi mua sắm cũng thấy nản lòng. Không biết bây giờ đã sửa sang sạch sẽ hay càng ngày càng...đi xuống?

May quá, tôi phải nhận Tây Ninh làm quê hương thứ hai, nhưng không ở đó nhiều, chỉ là những lần về thăm viếng, cúng giỗ, nên nhìn “người Tây Ninh” vẫn là những người tốt, nói giọng dễ nghe và đối xử với nhau rất thân tình, thân ái, không có cảm giác…làm dâu xứ lạ! Và nhà tôi cũng “không” phải thờ thiên nhãn, để tôi phải giật mình thức giấc và nhớ chuyện năm nào chạy trối chết vì cứ ngỡ có con mắt nhìn mình dù không làm gì…sai trái. Đúng là “chạy trời không khỏi nắng” thật, nhưng cái nắng đã giảm dần cường độ khi chàng Tây Ninh vẫn làm việc ở quê tôi, Nha trang phố biển hiền hòa và quanh năm mát mẻ.

Lê thị Hoài Niệm.

 

 

 

 

  

Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

MÊNH MÔNG NỖI NHỚ

 


Đã có lần tôi về lại thành phố Qui Nhơn, chạy qua con đưòng-giờ đã đổi tên(?) nhưng đó là con đường chạy dọc theo bờ biển, con đường có ngôi trường Sư Phạm Qui Nhơn ngày nào đứng sừng sững nhìn ra bờ biển đông mênh mông bát ngát. Nhưng tên trường xưa không còn nữa, quang cảnh ngày xưa cũng mất hút đâu rồi. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi còn gì, có còn chăng cũng chỉ là kỷ niệm.


Ngày tôi xách valy ngồi trên xe lam và dừng ngay trước cổng trường Sư phạm là ngày “đi lạc” đầu đời. Cô gái ngơ ngơ, ngáo ngáo một mình từ phi trường Qui nhơn về trường Sư phạm lần đầu đã gặp trở ngại, không một bạn quen đi cùng, nên khi rời máy bay ra cổng, thấy một chiếc xe lam trờ tới, là xách va li leo lên liền mà không chịu hỏi đường, đến khi bác tài, người đàn ông đứng tuổi, thấy hình như có gì sai sai bèn hỏi: cháu muốn đi về đâu? dạ về trường Sư phạm, ông cười và dừng xe lại nói: cháu xuống đây và đón xe đi ngược mới về lại truờng, xe này ra phố. Hú hồn! Cảm ơn bác.


Cổng trường mở toang đón chào các giáo sinh mới, có người đến sớm hơn ngày khai giảng, nên một số đi lang thang trong sân trường, hình như có ý chờ đón bạn đến, nên thấy họ cười nói vui mừng khi có người đến và cùng đưa bạn lên phòng. Sân trường rộng nên thấy mình nhỏ bé. Tôi một mình được chỉ vào văn phòng xin giấy tờ nhập học và xin phòng nội trú. Vị Thầy ở đó chỉ lên phòng số 3. Ui chao đông! các chị khóa 7 và khóa 8 cùng chung một phòng, hình như có đến 36 mạng. Tôi được một chỗ nằm giường trên sát vách trong cùng. Có chỗ là tốt rồi. Nhưng  ở nhà ít người quen rồi, bây giờ trong một phòng mà đông quá xá, đủ các giọng nói những miền…chưa quen nên có ngỡ ngàng. Chuyện ồn ào thì khỏi nói rồi, có người nói chuyện, cười nói, có người hát, có người ngủ…ngáy nho nhỏ, chưa thấy…cãi nhau, đủ loại âm thanh hỗn tạp trong một căn phòng mà một bầy con gái không cùng cha, khác mẹ đang cùng nhau sinh hoạt, học bài. Mỗi người một giường sắt, nên mùng giăng túa lua, quần áo thì giặt xong phơi đầy ngoài hành lang như lá phướng của giặc cờ đen hồi năm nẳm.


Lớp học có đến hơn năm mươi người, toàn là một…bầy con gái cùng trang lứa, xê xích nhau một vài tuổi, lớp tuổi…bẻ gãy sừng trâu. Nên trong lớp lúc nào cũng…ồn ào như chợ chồm hổm nếu thầy chưa đến. Cái bọn con gái phá như… ma, hình như phá ngầm thì nhiều, nên khó bị Thầy bắt tại chỗ (có lần chính tôi “bị” thầy Lưu gọi xuống văn phòng và “lạy cô đừng có phá nữa nhé”! hích hích, vì tôi là đứa ngồi ngay đầu bàn, nơi qúy thầy đứng giảng bài trong suốt hai năm ngồi học tập).


Tôi nhớ năm đó có một cô giáo người Mỹ vào dạy môn anh văn, người cô cao lớn và “mắt xanh mũi thẳng”. Đã không chịu…nghe cô giảng (mà có hiểu chữ nào đâu, có bao giờ nghe Mỹ nói đâu, ngoài học trong sách vở) cả đám bên dưới cứ khúc khích cười, đến nỗi cô giận ra đứng cạnh cửa sổ đề nhìn trời mây, có lẽ cô cũng thả hồn trở về xứ Mỹ xa xôi cách trở. Nghiệt ngã là trên cửa sổ có đám nhện giăng đầy (cao quá, các giáo sinh…lùn làm vệ sinh hằng ngày lau không tới), thế là mũi cô dính đầy dán nhện. Không phụ cô lau sạch mũi đã đành, bọn giáo sinh quái quỷ còn cười rống lên làm cô…giận và bỏ dạy về lại văn phòng hổng thèm dạy nữa.


 Những vị Thầy giáo khác thì mỗi người có một nỗi nhớ, Tôi nhớ Thầy Linh cố vấn lớp tôi cả hai năm nhất và nhị niên. Thầy hiền lành và ít nói. Tôi nhớ cô Hưng dạy canh nông, cô nghiêm trang và rất tận tình, lần nào bài tập của tôi cũng được cô cho 17 điểm rưỡi, rồi đưa vở tôi lên cho các bạn xem và rồi cô nói thêm “bài của em ghi chép sạch và đẹp nên cô cho thêm nửa điểm thành 18”. Cảm ơn cô thường “chiếu cố” đến học trò sắp ra dạy…học trò!.


Tôi nhớ Thầy Tôn dạy kinh tế, Thầy cứ nhìn chằm chằm vào bàn tay mấy cô giáo sinh đang để trên bàn và rồi phán một câu chẳng làm vừa lòng những trò có bàn tay đẹp “bàn tay đẹp không phải là bàn tay có ngón thon dài, trắng muốt như búp măng, mà đó là bàn tay biết tạo ra của cải…” đúng là vị Thầy dạy về kinh tế có khác.


Tôi nhớ nhất là thầy Bồn, Thầy có viết tập sách nên phải để tên vào. Thầy đang ở trên kia lỡ nhìn xuống đọc được những chữ viết này, xin Thầy đại xá cho mấy đứa học trò non lòng trẻ dạ nhen Thầy, Tại cái tên của Thầy nó vận vào tập truyện trẻ thơ của ông nhà văn Duyên Anh (Bồn lừa-nó lừa banh) nên mới khiến Thầy giận đỏ mặt và hét lớn: “trò nào? trò nào dám viết chữ…lừa vào sau tên tôi?”..Thưa Thầy kính yêu! con đâu có biết đứa nào nó chơi ác ôn vậy? chúng nó vào ra phòng này nhiều quá (phòng nội trú…trống, nên dành cho bệnh nhân bất thường), các bạn đủ mọi lớp có lòng đi “thăm viếng” bệnh nhân mà, mong thầy thông cảm cho. Dù cá nhân con đây, được thầy cố vấn và chị giám thị nội trú “cất nhắc” làm người canh giữ bệnh nhân chính thức trong số nhiều đứa trong lớp. Nhưng giữ bệnh nhân mệt lắm, vì “cô ấy” rất mạnh khi lên cơn, mà con thì ốm cà tong cũng phải cố, thì giờ đâu liếc mắt để ý kẻ ra vào, đứa nào ác ý ghi thêm chữ vào nên mới bị thầy la. Bữa đó vừa sợ mà cũng cố cười thầm.! Kỷ niệm khó phai.


Khóa 8 chúng tôi …hên, được ở nột trú mới đến hai năm. Chỉ vài tháng ở nội trú cũ là sang ở nhà mới sau khi được khánh thành. Nội trú này “nghe đâu” được USAID-MỸ” xây tặng cho trường. Bao nhiêu buồn vui lẫn lộn, kỷ niệm vơi đầy chất kín vào trang nhật ký đa số đều từ những ngày nội trú. Nơi đó mỗi buổi trưa đều được các bạn ban thư tín đem thư về phân phối. Nỗi vui mừng hớn hở khi nhận được thư, nhất là nhận được “manda” vào đầu tháng, nhưng rồi nỗi buồn len lén vào hồn khi thư …chàng chưa đến (ngoại trừ những nàng có người chuẩn bị cộng chỉ số bên nội trú nam, nên chắc không mong ngóng thư về). Năm nhất niên phòng tôi có chị Như Thuận, người chị Bình định trắng trẻo, mụ mẫm, hiền lành dễ thương đã có người thương là Lính. Chị nhận thư nhiều đến nỗi ba đứa tôi là Yến (bắc), Thu Mai và tôi đều…tò mò, cố gắng xem trộm thư để rồi…tức giận dùm cho chị, vì sao người đó đã có…chị để yêu thương rồi mà lại muốn cho…ra đời một đứa con nữa là sao? Thì ra chị cười vui hãnh diện về người yêu của mình là một…Nhà Thơ!. Bao nhiêu năm rồi, qua bao vật đổi sao dời, chị Như Thuận ở phương trời nào chúng tôi không hề nghe tin tức về anh chị, để biết mối tình xưa có tròn vẹn hay hai nẻo đường tình?


Và ở đó, mỗi tuần tôi đều nhận được thư anh trong rất nhiều bì thư khác, trang thư xanh mang nhiều nhung nhớ, anh cũng đang học như tôi, nhưng từ một ngôi trường huấn luyện “thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Anh từ quân trường Võ Bị xa xôi và chắc cũng …nhiều giờ rảnh vào ban đêm như tôi, nên tha hồ…tâm sự. Và ngày ra trường, anh “rủ” tôi chọn nhiệm sở về Đà Lạt, những ngày anh còn ở đó, nhưng tôi chọn về quê Khánh Hòa-Nhatrang cho gần cha mẹ-gia đình. Mùa hè năm đó, tôi cũng đã về Đàlạt ở chơi nhà Dì tôi, để đêm đêm anh…trốn trại ra ngoài, chúng tôi cũng có những giờ dạo chơi trên vài con phố vắng, mỗi lần có xe quân cảnh chạy qua, là anh kéo sụp mũ xuống, sợ …bắt lên xe đem về trại lãnh…củ phạt dài. Và anh, một thời gian ngắn sau đó cũng rời trường, để rồi “anh dũng hy sinh” ngoài mặt trận thành “chiến sĩ vô danh”. Cảm ơn những ngày nội trú, đã cho tôi nhiều thời gian gửi tâm tình bay xa, bay đến nơi anh ở cho anh vui như lời anh viết, dù tình cảm đó đã bị đứt đoạn giữa chừng.


Thế nên tôi rất thích làm “trực ban ngày cuối tuần”. Tôi thích đem niềm vui cho người, mỗi lần chạy mấy vòng nội trú, tìm ra “người thân” cho một người khách phuơng xa, người gặp gỡ niềm nỡ tỏ tình thân ái với nhau sau bao nhiêu ngày xa cách, thì người đi liên lạc, dù mệt, cũng cảm thấy vui lây.


Thời gian qua, nghe tin “Phan Bá Chức “đã rời xa dương thế. Cầu nguyện cho linh hồn của Chức sớm tiêu diêu miền lạc cảnh. Nhưng với tôi, PBC vẫn là …thầy dạy hát..Nhiều bài hợp xướng tôi vẫn ê a hằng ngày là từ PBC tập cho. Ngày đó mỗi lần nhà trường tổ chức văn nghệ, là “ban hợp xướng” được thành lập và phải tập hát hằng đêm, nào là Hội trùng dương, Con đường cái quan, Hòn Vọng phu…nhiều và nhiều bài lắm với 4 bè cao thấp khác nhau, PBC còn tập cho tôi và Thu Hằng song ca Tiếng đàn tôi của nhạc sĩ Phạm Duy hai bè sảng khoái, thêm Trần Tuyết thành tam ca…, bây giờ bạn đã đi xa, chúng tôi vẫn còn ngồi đây nhớ đến bạn, dù rằng  hơn nửa thế kỷ qua, vì quan san cách trở, chúng tôi duy nhất chỉ một lần gặp lại tại Sài gòn.


Mội lần họp mặt khóa 8, tôi được biết thêm nhiều bạn…cũ, nhưng mới với tôi, vì ngày ấy tôi không hề biết đến, lại nữa, tôi chân thành “tạ lỗi” cùng các bạn nam giáo sinh nhen, đã không biết ai vì.. không để ý! Các bạn cùng thực tập hai lớp cộng đồng, đi xa lắc xa lơ, nhìn mặt chứ chẳng biết tên ai, ngoài anh bạn “Phương tím”. Tại sao anh có biệt danh ư? Anh bạn tên Phương, nhưng lúc ngồi trên ghe, chẳng may ghe bị lật nhào xuống nước, bị nước nó …thấm lâu nên người lạnh trở nên tím rịm. Hỏi sao tôi nhớ? Vì tôi làm …tổ trưởng của tổ cộng đồng lúc đó, phải ghi chép để tường trình lại cho Thầy mà!


Thời gian ở xứ người, tôi tình cờ gặp lại một người Lính hải quân năm xưa đóng quân bên Hải đội hai duyên hải, nơi có lần trường SP qua đó trình diễn văn nghệ…giúp vui. Mặc dù giám thị có dặn: “Giáo Sinh không được…tiếp xúc với mấy ông Lính, nếu trái lời bị phạt”! Nhưng tôi phải đi tìm gặp ông bạn hải quân để mượn… “súng thật” làm cảnh cho vũ khúc “Hải quân hành khúc” lớp tôi diễn đêm đó, nên bị dính vào tầm ngắm, nhưng rồi biết có lý do chính đáng nên chị giám thị bỏ qua. Lúc gặp nhau, nhìn tôi một lúc anh bạo dạn hỏi: “ Có phải năm xưa chị học ở SPQN?” Trời! sao anh biết? Anh nhắc có lần thấy tôi post tấm hình về chuyến đi Cù lao Xanh trên face book mà anh là thủy thủ lái tàu khi đó. Lại một kỷ niệm hiện về chúng tôi tha hồ…nhắc nhớ. “Sao mấy ông Lính chơi ác vậy? cứ lượn tàu cho lắc lư làm cả một đám nữ giáo sinh cho cá ăn chè” mất vui. Anh cười hì hì bảo rằng “thuyền trưởng” muốn phá mấy cô chơi…hahahaha…

 

 Kỷ niệm đong đầy viết hoài chưa chắc hết. Đã năm mươi lăm năm rời xa trường cũ. Ngày ra trường chọn nhiệm sở, chúng tôi được chọn …sớm quá, nên mừng rỡ phóng ra xe, mà chẳng quan tâm đến các bạn cùng lớp chọn về đâu sau đó, một sự vô tình đáng trách.


Mỗi lần các bạn tổ chức họp mặt, dù đường sá xa xôi, dù có bị mất dạy gần nửa thế kỷ rồi, sao trong tôi vẫn bồi hồi, xúc động và tìm cách quay về tìm gặp. Dù kẻ còn, người mất, dù có bệnh đau nhưng còn đi được, hy vọng vẫn gặp lại các bạn một lần nữa, lần nữa và lần nữa trong những ngày còn lại.

Lê Phan Tuyết (nhị hai)

Thứ Tư, 9 tháng 7, 2025

 


NHA TRANG MÃI TRONG TÔI.

Lê Thị Hoài Niệm.

 

Nếu không phải vì “chiến tranh giặc giã” lan tràn, nếu không vì cái đảng cướp mệnh danh “mặt trận giải phóng miền Nam” xuất hiện lén lút đánh phá, gây bất ổn, điêu linh tang tóc cho người dân hiền lành vô tội, thì sẽ không có nạn “tản cư” di dời nơi ở. Từ chốn nông thôn hiền hòa, người nông dân không dễ gì rời bỏ làng mạc, mảnh đất thân thương với lũy tre làng hiền hòa bao bọc che chở qua bao nắng sớm mưa chiều.

            Gia đình tôi cũng thế. 

            Tôi không phải là dân sinh đẻ tại thành phố Nha Trang đâu, nhưng vì thời cuộc chiến tranh giặc giã như đã nói, nên Ba má tôi phải “di cư” từ miền nông thôn vào thành phố mà ở, lúc đầu ở nhà cô dượng tôi trên đường Nguyễn Trãi, có trường tiểu học Trí Dũng và sau là trung học Văn học, và tôi đã chuyển trường từ Nguyễn Huệ Tuy Hòa vào đệ nhất Trung học Võ Tánh Nha Trang.

 

            Những ngày còn ngồi ghế nhà trường, thường là vui lắm vì có nhiều bạn bè cùng lớp hoặc khác lớp, thậm chí còn có “đối tượng” nữa. Nhưng với tôi, một con bé “nhà quê” lên tỉnh lớn, cũng có nhiều nỗi e dè, sợ sệt, nhất là phòng học lớp Nhất A 4 của chúng tôi nằm tít dãy nhà sau sân đá banh, cạnh phòng thí nghiệm, nên mỗi lần đi đến phòng học, phải đi ngang qua một đám người đứng hạng thứ ba sau nhất quỉ, nhì ba, nên  ớn tận xương sống.

 

            Đã vậy, mấy anh chị trong lớp lại lớn đùi đụi, trong khi tôi bé tí xíu lại” đen thui”. Anh trưởng lớp tôi hồi đó tên Nguyễn Hữu Cầu thì phải? không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu? Nghe nói có anh tên Nguyễn Minh Nhựt đã hy sinh trong một trận đánh nào đó ở Phan Thiết, thành … anh hùng vô danh. Anh Nguyễn Văn Đốc, người rất cao lớn dưới mắt con bé tôi, cứ lò dò theo cô bạn N.T.Anh (đã qui tiên vài năm nay), đã là đề tài cho tôi và vài bạn chọc phá. Còn mấy chị thì tôi chẳng nhớ hết tên, chỉ có chị Nguyễn Thị Thùy Dương, con gái lớn của Bác Phụng (anh cả của nhà văn NXH, có căn nhà gỗ thật đẹp đầu tiên, sau xây cất thành nhà đúc hai tầng ở đường Hai bà Trưng, nơi đầu tiên tôi đến chơi sau khi chuyển trường đến NT, cũng như những ngày sau tháng tư đen tôi vẫn thường lui tới chơi với Phương Mai- em chị D và “ăn cơm nhờ” do bác Phụng gái nấu thật là ngon). Và có chị Hoa thật đẹp, nước da trắng bóc, hình như là người “Tàu lai”,  nhà chị có tiệm vải ở đường Độc Lập, là ngôi sao của lớp, có nhiều cây si trồng trước cửa nhà chị và trong đó có vị Thầy giáo dạy “vạn vật” của lớp tôi ( và Thầy đã…xác minh  điều đó khi tôi gặp lại Thầy tại nơi tôi ở khi Thầy sang Mỹ du lịch).

            Tôi hay đi học với Thu Thủy (hiện sống tại Sài gòn), nhà ở đường Phước Hải cạnh tiệm chụp hình Liên Nga, nên tụi tui hay chui qua đó nhìn hình người đẹp (hình chị chủ tiệm nhiều nhất) và tán gẫu với anh chị chủ tiệm. Và cũng vì đường đến trường phải đi ngang qua quân y viện Nguyễn Huệ, nên hôm nào đi học một mình là chịu cảnh “chân hươu đá chân nai”, vì  bị mấy chiến sĩ miền xa trở về thành phố “nghỉ phép bất đắc dĩ” ngồi cạnh hàng rào la ó, kêu réo om sòm, nhiều khi họ …đọc thơ tình thật lớn để tặng cho mấy cô nữ sinh áo trắng, có nhóm thì …hát vọng cổ, có khi họ vừa đệm đờn ghi-ta vừa hát tình ca cũng mùi quá mạng, nhưng sợ quá thì cứ cố đi nhanh, hôm nào đi chung cả bọn thì cứ tà tà đứng làm khán giả bất đắc dĩ, chắc mấy người thương binh nghệ sĩ cũng cảm động lắm lắm (?)

 

            Tôi cũng không nhớ vì nguyên do nào, mà có một lần cả đám con gái lớp chúng tôi, có cả chị Thùy Dương, có N T Anh, Thu Thủy,  có thêm Kim Hoa của lớp A2,( người bạn cạnh nhà, có bố làm trưởng ty BĐ, và chúng tôi thường rủ nhau đi học mỗi bữa) kéo nhau vào quân y viện NH, định làm đơn xin đi “tòng quân làm Lính gái”, nhưng trong khi đứng lơ ngơ lớ ngớ chẳng biết phải đi chỗ nào và hỏi thăm ai, thì đã bị mấy người Lính đi tới đi lui la hét chọc phá, nên cả bọn ù té chạy về chẳng thiết tha gì chuyện lính tráng.

 

            Nhờ những tháng ngày “chăm chỉ học hành”, không lang thang ngoài phố Độc lập, không lạng tới lạng tui bằng xe Yamaha hay Honda như mấy cô bạn gái cùng xóm, nhằm mục đích “chộp mũ” những chàng Sinh Viên Sĩ Quan Không quân -Hải quân, những “người trai thời loạn” đang tập tành làm Lính ở những quân trường, mà có nhiều người quê quán xa tắp mù khơi trên mọi miền đất nước, nên khi về thụ huấn ở Nha trang đã trở thành “con bà Phước”, cuối tuần chỉ biết lang thang trên đường phố, nhìn thiên hạ đi tới đi lui, chờ cuối ngày về lại quân trường, và đó là “đối tượng” thích hợp để mấy cô gái choai choai đang rảnh rỗi ra tay làm việc …nghĩa hiệp và  muốn có người cảm ơn mình sau khi  đã trả mũ về cho nguyên chủ. Dĩ nhiên “trò chơi mạo hiểm” này đã không mấy lôi cuốn được tôi, mà mấy năm sau tôi có được cái nghề “gõ đầu trẻ” xuất từ trường Sư phạm Qui Nhơn, vì không có nhiều tiền để vào Sè-Goòng học tiếp, vả lại “thân gái dặm trường” nên ông bà bô sợ đi một mà về ba không ai nuôi dưỡng nổi..

 

Người sống ở Nha trang một lần trở về trên chính nơi mình lớn lên, học hành và làm việc bao nhiêu năm. Thời gian xưa không dài bằng những ngày sống trên đất Mỹ, nhưng vẫn ghi lại nơi đó nhiều kỷ niệm khó quên….

Hình ảnh con phố Độc lập, Phan bội Châu,…những con đường chính trong thành phố vắt ngang qua khu chợ Đầm hay đường phố Nguyễn Hoàng, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Trãi ôm lấy khu chợ Xóm mới năm nào, mỗi sáng chủ nhật rộn ràng trong nhịp thở của một thành phố Lính. Đủ mọi sắc áo của Lính, của gia đình lính, đủ mọi loại xe cộ, từ chiếc xe Honda đàn ông, đàn bà, đến chiếc xe jeep màu xanh, đến chiếc xe truck, xe nhà binh…Thành phố rộn ràng đón người Lính từ các Quân trường ra nghỉ cuối tuần, đón người Lính từ chiến trường về dưỡng quân nơi thành phố, đón người yêu, đón gia đình của Lính từ khắp cả đất nước về thăm viếng người thân. Người thành phố cũng rộn ràng cuốn theo nhịp thở vui nhộn, bừng bừng sức sống vươn lên từ những trái tim yêu dù hoàn cảnh đất nuớc có ra sao…

Xa xa một chút bên vùng biển Bãi dương, những hàng dừa cao rũ bóng ngã dài xuống bãi biển dẫu còn hoang sơ, nhưng vùng nước không sâu, chỉ là còn nhiều rong rêu trôi lềnh bềnh trên những đợt sóng nhấp nhô đang muốn tấp vào bờ, nhưng vẫn là nơi tắm lý tưởng cho những ai muốn xa rời thành phố một thời gian ngắn.

Rồi đến Hòn chồng, một thắng cảnh nổi tiếng của thành phố Nha trang, nơi có năm ngón tay in rõ hình trên vách đá, dấu tích của một thời mới khai sinh lập địa, có những hóc đá …trữ tình, có lẽ nhiều người chui vô trú nắng nhiều quá, nhất là những “đôi tình nhân” nên mặt đá nhẵn thín, ngồi êm ru. Muốn đến được nơi này, phải đạp xe lên một đoạn đường dốc dài (hay đi xe lam), nhưng thú vị lắm, phải leo qua những cụm đá, phải dẫm chân lên những vũng nước mà leo qua đá chồng đá chất mới đến ..sờ được mặt đá “Hòn chồng”. 

 

Phố biển chiều hanh nắng, dưới bóng những khóm dừa lả ngọn, là hình ảnh của những nhóm người trong gia đình, trải tấm nhựa dài và cả nhà già trẻ lớn bé quây quần chia nhau nắm xôi, trái cốc ngâm, rồi cùng nhau nhảy ùm xuống nước biển, đùa giỡn với  sóng nước mênh mông … Hình ảnh những người Lính ngồi trong quán nước bên ly cà phê, mơ màng nhớ về người yêu nơi xa xăm nào đó, hình ảnh bác xích lô chụp mũ lên mặt ngủ một giấc dài trên chiếc xích lô đậu ngoài mé biển, hay chiếc xe đẩy hàng rong với mớ cốc ổi ngâm nhem thèm bọn con gái, chiếc xe cà tàng bán đu đủ bò kho cho bọn học trò trai nhao nhao chờ đến lượt…

Bãi biển ít người im ắng, nhưng thơ mộng ngay những lúc xế trưa đó, tất cả đã đi vào dĩ vãng…xa rồi và có lẽ ngàn đời sau không bao giờ tìm lại được!

Nhắc lại con phố nhỏ năm nào từ những ngày ở Nhatrang, sao lòng thấy nao nao buồn mốn khóc.

 

Từ khi dời nhà từ đường NguyễnTrãi sang Phù Đổng Thiên Vương, con phố nhỏ thật yên bình, thân thiện như bà con một nhà của những người hàng xóm láng giềng. Cạnh nhà tôi bên trái là khoảng đất rộng của nhà chú Tư, vợ chồng chú là người từ Quảng Ngãi vào Nha trang lập nghiệp từ lâu lắm. Khi đó đám đất hãy còn trống trơn và chú thiếm đã dựng lên ngôi nhà hai tầng khang trang với gia đình có một đứa con trai độc nhất, thằng “cu Tài”. Chú thiếm “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” cả xóm ai cũng trầm trồ khen thằng nhỏ “tốt phước”, dù chú thiếm chỉ là những công nhân bình thường.

Sau lưng nhà là cả một vườn cây ăn trái của “Dì Bảy Đọt”, vì lấy tên của người con trai lớn đang là Lính không quân phục vụ trong sân bay, cậu chàng cũng đờn giỏi hát hay nổi tiếng trong xóm. Căn nhà nhỏ xinh xắn nằm gọn trong vuông đất rộng cả mẫu tây, nên Dì dượng trồng rất nhiều cây ăn trái, vì nó không nằm ngoài mặt đường, nên muốn vào nhà phải vào bằng một con hẻm, nhưng đâu có sao. Nhà trồng ổi nhiều lắm, có một cây tàn rộng phủ qua hàng rào nhà tôi, phủ lên cả một hồ đựng nước, nên cứ mỗi xế trưa, tụi tôi tha hồ leo lên cây ổi mà hái trái chín mơn mởn, với một nắm …muối ớt cay cay, mặn mặn để thanh toán ổi thơm tại chỗ thật …tuyệt vời, lôi cuốn rất nhiều tên bạn đến tham gia hái ổi ..trộm nhà hàng xóm.

  đối diện là nhà của “bà Bắc” bán chạp phô, tiếng gọi thân thương dù bác ấy đã lớn tuổi rồi. Bác trai làm Thượng sĩ trong quân đội nhưng nuôi cả một đàn con trai gái đủ đầy, có hai anh lớn làm đến chức Thiếu tá trong quân đội VNCH, những bạn gái cỡ tôi đều xuất thân từ trường sư phạm.

Cạnh bên là nhà của Thầy giáo Ng. năm nào cũng …sản xuất thêm nhân số, đứa lớn đứa bé gì cũng ở trần trùng trục, mạnh khù khù cứ chạy u ra trước ngõ, để vợ của Thầy phải bưng chén cơm vừa chạy vừa kêu tên mấy đứa nhỏ, mà chúng tôi cũng chẳng nhớ hết tên luôn. Bên cạnh là nhà “ông thợ sắt”. Thật ra chú là người của dòng dõi vua chúa di cư vào đây, hình như là anh em của ngài…Vĩnh Thụy thì phải, vì chú cũng có họ Vĩnh. Mấy người con trai của chú trắng trẻo, nhẹ nhàng như con gái, nhưng không phải…đối tượng của con gái xóm tôi.

Nhà ông Huế thì có nhiều phòng cho thuê, từ Đại hàn, Mỹ, đến cảnh sát, quân nhân ta, hay những người  độc thân…tại chỗ, nên tấp nập người đến kẻ đi, vui lắm lắm.

 Chung quanh xóm nhà nào cũng quen biết, thân tình với nhau. Nhà thiếm Hai kế tiếp rất đông con, chiều nào chú hai cũng lùa cả đám con leo lên chiếc pick up truck mà chạy về tận thôn Đại điền thăm nhà từ đường của chú. Tháng nào có người em từ trường võ bị Đà lạt về thăm, cả xóm cũng “ăn mừng” theo với gia chủ, và cũng là “đề tài” để đám con gái trong xóm bàn tán, khen chê.. Nhà chú Thông bên kia có tiệc vui gì cả xóm cũng được biết.

 Nhà “bà quận” với mấy cô con gái rượu suốt ngày ngồi xe jeep, được “ông Lính biệt phái” chở đi tới đi lui đủ chỗ đủ nơi, bữa nay đang làm tiệc…đón chàng rể nào cả xóm cũng được tin. Ôi cái xóm nhỏ mà vui, chia xẻ buồn vui trong cuộc sống đời thường, ngay cả những buổi kêu mời nhau đến “dự đám giỗ” của một nhà trong xóm, mà bọn nhỏ chúng tôi hay hát đùa: “Tai nghe có đám giỗ gần, trong bụng bần thần chẳng muốn nấu cơm” cho đến những ngày đầu tháng tư của năm 1975, ngày “tang thương” của cả thành phố và những người trong khu xóm nhỏ.

 

Ngày đó xóm nhỏ vẫn còn tồn tại, dù người đi đã đi, nhưng những căn nhà chưa hề đổi chủ, tuy có mấy căn nhà lớn bị “chính quyền mới” vào tịch thu đề làm văn phòng hành chính mới, nhưng vẫn còn đó những trao đổi thân tình, những quan tâm thăm hỏi về những khó khăn, những chịu đựng nhọc nhằn đang đổ oằn trên vai những người thành phố bởi đám người “giải phóng miền Nam”! Những ngày tháng tư đen tối hãi hùng đổ ập lên đầu cả những người dân hiền lành ở những phần đất đã bị “quân giải phóng” chiếm đóng. Và xóm nhỏ nhà tôi cũng không ngoại lệ. Ba má tôi khóc hết nước mắt vì hai người con trai, một đại uý ở bộ tổng tham mưu, một đang học tại Sài gòn không hề biết tin tức gì cả. Những người bà con lánh nạn vào ở trong nhà đã về lại quê ở Phú yên, và người cháu gọi má tôi bằng dì đã bị “quân giải phóng” bắt và chặt đầu chỉ vì từng làm “xây dựng nông thôn”. Mấy người con còn lại thì cứ phải “đi lánh nạn” bom đạn từng đêm từ những ngày đầu tháng tư năm đó.

Nhà bà Bắc trước cửa giờ chỉ còn lại bác trai với vợ chồng người con gái thứ. Bác không đi tù vì không phải sĩ quan. Bác buồn bã suốt ngày không nói một câu, cứ đi ra đi vô thở dài, ngay cả ba tôi có hỏi han Bác cũng không buồn nói. Những ngày tháng mà người Nhatrang phải chịu những trận “bom” từ những chiếc máy bay, bay đến thả những trái bom tấn chết người vào ban đêm do phía những người Lính ...quân mình! Bác buồn bỏ cả ăn uống và trút hơi thở cuối cùng mà mắt mãi không chịu…nhắm. Lúc chúng tôi hay tin chạy sang nhà, để chứng kiến giờ phút lâm chung của bác mà không cầm được nước mắt, vì bác cứ nấc lên từng cơn, như luyến lưu điều gì mà uất hận không nói được, đến khi tôi và người con rể của bác phải “năn nỉ” Bác hãy buông xuôi mà thanh thản ra đi về một nơi chắc không có chiến tranh giặc giã nữa, và những người thân của bác chắc không về gặp được bác đâu…, lúc đó bác mới từ từ nhắm mắt xuôi tay. Nỗi buồn chi mà buồn lạ buồn lùng khi người đầu tiên trong xóm tôi ra đi mà không có đám tang cho đúng nghĩa.

Trong khi cái “ủy ban quân quản” suốt ngày cứ ra ra cách mạng này cách mạng kia với bảy điểm gì đó với cái giọng chanh chua chát chúa, nghe lạnh sống lưng của những người miền Bắc, từ những cái loa bắt cùng khắp trên các trụ điện chỉa thẳng vào nhà dân mà chưa chắc người nào muốn nghe, thì sau lưng nhà tôi, giọng ca và tiếng đờn của Đọt cứ vang lên, nhiều khi nghe réo rắt, có lúc u uẩn xa xăm. Rồi Đọt hát những bài ca tiếng Mỹ, dĩ nhiên có bài chúng tôi chưa từng nghe qua, nhưng sao nó như xoáy vào tận ruột gan…

Nhưng rồi, một buổi tối cả xóm tôi ồn ào và cùng chạy tới “trụ sở khóm” là nhà ông bà cảnh sát đã di tản, để thấy Đọt bị công an đánh tới tấp vào lưng, vào mặt mà không hề kêu la đau đớn gì cả. Thì ra Đọt đã làm một việc mà chắc không ai làm được, anh chàng đã “leo” lên tận sân thượng nhà bác Từ Vân và đứng hát trên đó, dù không biết Đọt đã leo bằng cách nào? Vì trên tường nhà không có cầu thang. Rồi “cách mạng” cũng phải thả Đọt ra vì không “điều tra” được nguồn tin phản động nào. Sáng hôm sau thì bên trường học, đã chứng kiến một cảnh tượng chưa từng có. Đọt đã “ngồi vắt vẻo” trên trụ cờ bé tí xíu, và đang xé cờ “mặt trận giải phóng miền nam” nửa xanh nửa đỏ đang treo rũ rượi trên đó, bên dưới là một đám công an la lối om sòm, và bọn học trò nhỏ thì bàn tán xôn xao như cái chợ, vì không hiểu làm sao mà Đọt leo được lên tới ngọn, khi mà cái trụ cờ bé tẻo tèo teo. Đọt “điên” từ đó và bị cột chân vào gốc dừa thê thảm lắm, đến mấy năm sau mới mất…Thương lắm.

 

Nhưng đó là chuyện dĩ vãng xa rồi, có nuối tiếc cũng chỉ là nuối tiếc.

Kỳ này tôi trở về thấy xa lạ lắm. Ba má tôi đã về miền tiên cảnh, hai ngôi mộ nằm trên ngọn đồi rất xa thành phố tận trong Suối dầu. Những người già đã giã từ trần thế xuôi tay, những người trẻ năm nào bây giờ cũng đã thành… bô lão, có người cũng đã qui tiên, có nhiều người đang ở xa hằng bao nhiêu cây số, từ nước Úc, nước Mỹ, nước Tây. Xóm nhỏ năm nào nhiều nhà đà đổi chủ, nhà lầu cao tầng đuợc cất lên, bán buôn tấp nập dù con phố chẳng đổi tên. Buồn lắm lắm.

Nhà chú Tư bên cạnh đã bán đi nhiều phần đất, chỉ còn lại một đám nhỏ để cất lên căn nhà nhỏ. Người con trai độc nhất năm xưa được cha mẹ cưng chìu, giờ phải đi làm xa quanh năm suốt tháng, còn lại người con dâu chẳng coi ông cha chồng ra gì, có hôm còn “nhốt” ông trong căn phòng bé xíu, nóng bức da non. Ông có kêu la thì cô ta cho là ông…lên cơn điên loạn.

Nhà thầy Ng. thì đã bán cho người về từ phuơng Bắc xa xôi, họ làm gì trong đó mà cửa đóng then cài chẳng ai biết. Nhà bà Bắc đã bán cho cán bộ .., cũng từ miền Bắc vào, mở phòng chơi game ồn ào như cái chợ. Nhà ông Huế bán cho…việt kiều về xây lầu cao mấy lớp, che …gió biển cả khúc đường. Người lạ về mua nhà, lầu càng cao thì con hẻm lại càng nhiều, âm u và thiểu não.

Nhưng, dù sao Nha trang vẫn là thành phố thân thương trong tôi, thành phố có quá nhiều kỷ niệm của thời mới lớn và đi dạy học tại Nam tiểu học và Âu Cơ. Thành phố còn in lại bóng dáng của những “người hùng năm xưa”, nhưng bây giờ tất cả chỉ còn trong nỗi nhớ. Ngả sáu nơi có “cư xá Sĩ quan vãng lai” năm nào, nơi mà mỗi chiều đạp xe trên đường về, người sĩ quan “nghỉ dưỡng thương” cứ ra đứng chận đường dù là hỏi thăm dăm ba câu…vô nghĩa, bây giờ quán xá chiếm ngự. Quân y viện Nguyễn Huệ, bây giờ cũng chẳng còn, mà là những dãy phố cao tầng, đèn điện sáng choang. Ngay cả “nghĩa tử đường”? (tên nhà xác quân đội mà lâu rồi không nhớ rõ) trên đường Lê Thánh Tôn, nơi mà năm xưa có lần tôi chết siếng vì nhìn thấy những xác người Lính hy sinh không trọn vẹn hình hài, bây giờ là một khách sạn, nhưng nghe đâu không ai dám ở, vì cứ bị “ma” phá hoài. Và cả Trại “Hùng Cường” của hành chính tài chính trên đường Lý Thánh Tôn, mà có lần tôi đùa vui cùng vị sĩ quan trong đó: “Thiếu uý nhìn em thiếu úy cười, Bồ em Trung úy, thiếu úy ơi!” cũng đã thành …thiên cổ. Phi trường Nha trang ngày xưa rộng thênh thang, nơi có căn cứ huấn luyện Không quân, có cả Sư đoàn hai KQ trú đóng, nơi tặng cho tôi người Lính “nhà tôi” từ bấy đến nay, giờ bọn lãnh đạo nhiều quyền lắm thế đã “chia lô” bán cho nhà thầu ngoại quốc (?), mà nghe đâu là người Tàu đứng phía sau. Nhiều và nhiều nơi đã mất hút bóng hình. Tiếc thật.

 

Nha trang, ngày tôi trở lại gặp được gia đình anh chị, các cháu, hội ngộ quá nhiều bạn bè, niềm vui trong tôi còn đọng mãi. Dù bây giờ những thắng cảnh hữu tình của Nha trang không còn nữa, người Nha trang cũng chẳng còn nhiều, chung quanh nhà tôi là người xa lạ mới đến ở, nên muốn tìm lại một chút kỷ niệm ngày xưa thì cũng chẳng có người để cùng ôn chuyện cũ.

Nha Trang xưa vẫn còn mãi trong tôi…

Lê Thị Hoài Niệm.