BÊN ĐỜI
Lê thị Hoài Niệm.
Vượt cả một đại dương mênh mông để trở về
nhà. Về nhà! Nghe sao thương yêu trong từng kỷ niệm. Đi đâu rồi cũng phải trở về
nhà, dù rằng cuộc ra đi với muôn ngàn khó khăn gian khổ, hay điều kiện tốt đẹp
như một cuộc du lịch xa, ở hotel hạng năm bảy sao, tới những tòa biệt thự sang
trọng, nhưng vẫn không phải của mình, vẫn mong trở về nhà. “No place like
home”! người phương Tây cũng đã có cùng quan điểm đó.
Nhà nào bằng nơi chốn mình được sinh ra
và lớn lên với muôn vàn kỷ niệm. Đi và về, cái vòng lẩn quẩn quấn quanh trong
cuộc sống. Có những ngườì rất muốn quay về nhưng đã không còn cơ hội, không còn
những thân tình để tìm lại chút thương yêu, và căn nhà xưa đã không phải của
mình nữa rồi.
Và tôi đã trở về, về để thăm lại mẹ cha
với thân xác đã nằm yên trong lòng đất lạnh, khi những đứa con đang ở xa ngút
ngàn, cũng vì hoàn cảnh của thời thế. Thương cho ba má tôi, suốt cả một đời lo
lắng, nuôi nấng, dạy dỗ cả một đàn con, khi đám con trưởng thành, lại cưu mang
cơm nước cả một bầy bè bạn của con, những người trai mặc quần áo lính từ quân
trường Lam sơn- Dục Mỹ. Hy sinh tất cả cho con, nhưng những ngày cuối đời, đến
cận kề bờ tử sinh, ngay khi trút hơi thở cuối cùng, bên cạnh chẳng có đủ mặt
các con để làm ấm lòng trước giờ tử biệt. Buồn.
Buổi chiều, sau khi thắp nhang cúng cơm
cho Ba tôi sau 49 ngày người mất, người mất vào chiều mồng hai tết, sau khi được
ăn những món ngon nhất ngày tết do người em họ nấu cúng đầu năm. Ba tôi đã ngủ
và ngủ luôn giấc ngàn thu không bao giờ thức dậy nữa. Khi những nén nhang chưa
tàn, và những người thân trong gia đình còn tụ tập bên bàn nói chuyện về người
đã mất, thì có tiếng gõ cửa. Khách đến.
Người đàn ông buớc vào không có chút gì
ngỡ ngàng, như có gì quen thuộc và biết trước mọi việc đang xảy ra, ông xin đưọc
thắp nén nhang để cầu nguyện cho người đã khuất sớm được siêu thoát.
Chị tôi chào đón ông và ngỏ lời cảm ơn
đã vì người quá cố mà đến. Không phải vì tò mò, nhưng lịch sự tối thiểu cũng phải
biết tên để cảm ơn. Bỗng ông quay lại nhìn tôi cười cười và hỏi trổng: quên rồi
sao?
Tôi khựng người, ngó kỹ lại, giật mình-
quên! Làm sao quên được. Người đó sao? Đã hơn bốn mươi năm rồi, từ ngày đất nước
tan đàn xẻ nghé, tôi gặp người lần cuối cùng trên bước đường di tản, người đi
theo đoàn xe GMC của trung tâm huấn luyện Lam Sơn xuôi nam trên quốc lộ một. Còn
tôi, trên chiếc Zamaha 2 bánh chạy về trang trại của gia đình trong Suối Dầu để
trốn tránh những người tù vừa thoát khỏi những trại tù ở Nha trang. Đoạn đường
chật ních người, kẹt cứng không thể di chuyển nhanh được. Những chiếc xe đủ loại
cứ nhích nhích, nhiều lúc đứng yên, nên đoàn người hoảng loạn, nhất là những
người Lính, cứ nhào xuống nhìn về trước, hỏi thăm điều gì đó, rồi lại leo lên
xe, người đi bộ thì né xuống lòng đường mà lầm lũi bước, xe hai bánh thì lách
luồn tìm khoảng trống mà lách qua, vậy mà người Lính đã nhận ra tôi, người phóng
xuống và níu lấy xe tôi, ôm chầm phía sau lưng tôi trong vội vã khiến chiếc xe
gần như muốn ngã.
Những ngày tang thương, đau khổ của cả
thành phố Nhatrang, ngày tôi ngóng trông tiếng xe nổ dòn trước sân nhà để nhìn
người Lính xuất hiện mà hỏi xem …tình hình diễn biến ra sao? Anh có ý định gì
không?. Thành phố rất chộn rộn, tôi không còn đứng trên bục giảng mà trở thành
người “tiếp cư” tại ngôi trường tôi đang dạy học, trường học trở thành “trung
tâm tiếp cư’ của thành phố, những em học sinh nhỏ không xuất hiện trong sân trường,
trong lớp học, thay vào đó là những nạn nhân chạy loạn. Họ từ những tỉnh miền
cao nguyên theo đoàn quân di tản đổ về, từ miền trung chạy về đây. Những người
dân với nét mặt hoang mang, lo lắng trong những bộ quần áo nhếch nhác, lê thê lếch
thếch mệt mỏi đến tận cùng.
Cứ mỗi chiều là có từng đoàn xe đổ xuống,
nào là xe chở hàng, xe jeep nhà binh, đủ mọi hạng người, có người lạc mất gia đình,
có người mất cả con thơ, …v..v nhìn thấy cảnh xơ xác của họ mà vô cùng đau
lòng, thương cảm..
Tin chìến sự cũng ùa tới khi những người
di tản kể chuyện bị bắn giết trên đường đi, họ đã vượt qua bao gian nan khổ ải
để tìm về vùng đất bình yên, nhưng không biết có được bình yên hay phải đi tiếp.
Và sự hoảng loạn đã bủa vây cuộc sống của
các Thầy Cô giáo trong trường. Có vài người đã bỏ trường ra đi vào nam theo
chuyến bay air Việt Nam vì họ có điều kiện. Cứ mỗi buổi đến trường, sau khi làm
công tác trợ giúp, các Thầy Cô lại tụm vào nhau và bàn chuyện nên đi hay ở? Vì
có những “tin đồn”, nếu là các cô sẽ bị bắt làm “hộ lý”, và ai để móng tay sẽ bị… rút móng. Sự sợ hãi tăng theo số người tản
cư tràn vào thành phố.
Và rồi một số đông đã ra đi, những người
vừa mới đến cũng dọn gói đi tiếp vào nam theo nhiều phuơng tiện, như xe hàng,
ghe thuyền là chủ yếu. Tôi đã không còn dám đến trường vào những ngày cuối
tháng ba năm đó vì, trên đường đi rất bất ổn, một số lính ở miền ngoài được tàu
hải quân đưa vào bến cảng cầu đá và lên bờ tha hồ đi…phá phách thành phố, những
người phái nữ ít dám ra đường nếu không có người nhà đi kèm theo.
Lại nữa, tin từ các đài truyền thanh BBC
và đài VOA, theo lời ba tôi nghe hằng ngày, đã loan tin phe địch…thắng trận
liên tiếp, và phe quốc gìa đang …bỏ ngỏ nhiều tỉnh miền Tây Nguyên và phía bắc
miền trung. Quân “mặt trận” tiến thẳng như vào chỗ không người.
Ngày gần cuối tháng 3 năm ấy, nhà tôi bỗng
thêm nhiều bà con từ các tỉnh vùng ngoài cũng tản cư đến trú ngụ. nào là gia
đình mấy dì ruột, anh chị con cậu, vài ngưòi bà con, vị chi hơn tiểu đội, nên đã
sợ càng thêm lo lắng.…
Những ngày còn tin tức trên TV địa
phương, cả nhà ngồi quanh trước TV, nhìn cảnh từng đoàn người đi hàng dọc trên
lề đường quốc lộ tiến vào nam, và xe cộ thì chen chúc nhau, cứ cà nhích cà
nhích, trên ấy chở hàng hà sa số người đu bám, thấy lo sợ lắm.
Vậy mà tôi cũng đã thành một trong số những
người đó, nhưng tôi chỉ đi một đoạn ngắn có đích đến, và bất ngờ gặp người Lính
trong hoàn cảnh nghiệt ngã này, nên chỉ biết cầm tay, khóc chào từ giã, biết
nói gì đây khi người đang làm nhiệm vụ người Lính chưa mất đơn vị, và phải di
chuyển theo đơn vị dù chưa biết tương lai về đâu. Và những ngày qua, đoạn đường
Dục Mỹ-Nha trang quá đông người di tản lại bất ổn, làm sao người có thể về thăm
tôi lần cuối khi đơn vị đang cắm trại…
Và chúng tôi xa nhau từ đó, đến khi tôi
vượt biển vẫn không có tin tức của nhau, mãi đến hôm nay.
****
Ngồi nhắc lại kỷ niệm xưa, từ lúc chọn
nhiệm sở là trường Phong ấp- Ninh Hòa sau khi tốt nghiệp trường Sư Phạm, tôi bỗng
dưng thành một “tay chơi vũ cầu” thật xuất sắc. Thường thường mỗi buổi sáng,
chúng tôi đến trường sớm hơn thường lệ, chỉ thỉnh thoảng xe đò bị hư gì đó mới
đến trễ, tôi và Thầy M, dạy cùng trường, nguyên là một vận động viên thể thao của
vùng hai duyên hải, Thầy rất giỏi các môn thể dục thể thao, thế là Thầy làm “huấn
luyện viên” môn vũ cầu cho tôi, tôi chỉ có việc cột hai vạt áo dài lên, và với…chân
đất tha hồ chạy đỡ banh, mặc cho mồ hôi đẫm ướt áo, tính sau. Có khi đến giờ học
trò làm bài tập, chúng tôi cũng chạy được ngoài sân.
Ông Trời chơi khăm, buổi sáng đó, trong
khi tôi đang cột vạt áo và đang chạy ướt đẫm mồ hôi, thì có mấy chiếc xe Honda
chạy vào sân trường, và mang theo xe là những người Lính. Họ đến từ quân trường
Lam sơn-Dục Mỹ và tìm cô giáo T, họ “giới thiệu” là bạn của anh trai tôi. Trời
đất quỉ thần ơi! Cái cô giáo đang vắt ngang vạt áo dài, quần thì ống xăn ống xổ,
người thì ướt đẫm mồ hôi mà đi tiếp khách sao trời? Nhưng đành phó mặc, ra sao
thì ra.
Vậy mà người Lính đó đã để ý đến cô giáo
quái gỡ, thích chơi thể thao kia mới chết chứ. Để rồi sau đó, hình như đoạn đường
Dục Mỹ- Ninh Hòa được thâu ngắn hay sao đó, mà người cứ xuất hiện ở trường tôi
hoài, đến nỗi thầy hiệu trưởng Ng. cứ đùa vui “trường mình có mướn …lính canh!”
Cũng bởi tôi có máu văn nghệ trong người.
Từ năm học đệ thất, má tôi đã cho tôi học đờn măng-đô-lin, rồi sau đó lại học
guitar, nhưng cứ bị ..thầy gõ tay hoài, nên tôi đã bỏ ngang xương, dù mới biết
có chút chút. Nhưng máu văn nghệ vẫn còn tiềm ẩn, khó mà dứt bỏ, nên chi khi
người Lính biểu diễn ngón đàn thật lả lướt, với giọng hát thật truyền cảm, truyền
qua ánh mắt biết cười, chỉ có …nữ tu may ra không xao xuyến, chứ đứa con gái mới
lớn bình thường mà mê nhạc như tôi bị …hút là chuyện đương nhiên..
Tôi có dịp đi Dục Mỹ nhiều lần sau đó,
con đường bỗng nên thơ, trữ tình chi lạ. Con “suối mơ” có căn nhà gỗ của những
người Lính thuê để về trú ẩn sau những giờ phút “thao trường đổ mồ hôi, chiến
trường bớt đổ máu” đã có ban nhạc bỏ túi, với tiếng đàn điêu luyện của những người
Lính và tiếng hát của chính họ, của bạn Lính như chúng tôi với những bản nhạc
ca tụng người Lính, hòa lẫn vào nhau nghe thật nức lòng.
Với đám đông các người sĩ quan huấn luyện
viên quân trường, có cả anh tôi, tôi đã là “hành khách” trên chiếc xe Honda của
người Lính, nên dù nắng có gắt, gió có thổi hắt vào người từ những đám bụi của
cơn trốt buổi xế trưa vừa cuốn qua, tôi vẫn không cảm thấy phiền hà, khó chịu
vì tình cảm dành cho người Lính đã vượt qua những gió cát của đoạn đường.
Má tôi thương bạn của con thật đó, nhưng
để cho con gái bà về “nâng khăn sửa túi” cho mấy chàng lãng tử, coi bộ bà không
vừa ý mấy. Bà vẫn dạy rằng “con mà lấy nó, cái thằng ăn chơi, đờn địch ca hát
kia, mai mốt có đường…bốc mắm mà ăn con ạ!”…
Từ khi đổi về lại Nha trang, con đường
Ninh hòa - Dục Mỹ đã không còn thường xuyên đón bước chân tôi, hoạ hoằn lắm mới
cùng các bạn tôi đổ đường về thăm lại, khi phải làm “hướng dẫn viên” cho một cô
bạn nào đó đi thăm chàng “Sĩ quan huấn luyện” mới quen. Con đường có xa hun hút
nhưng tình cảm của tôi dành cho người Lính năm nào vẫn níu chặt bên đời, dù má
tôi có ý cản ngăn, mãi đến khi ….
*****
Bây giờ người xuất hiện nơi đây, vẫn ánh
mắt biết cười dù thời gian và hoàn cảnh sống trong nước có làm người già đi…nhiều,
nhưng không đến nỗi. Đã có một bức màn vô hình ngăn cản, nên chúng tôi chỉ nhìn
nhau và hỏi chuyện bâng quơ về đời sống của mỗi người sau ngần ấy năm dài không
gặp lại, và lý do người đến hôm nay, và rồi có những lời tâm tình cảm động.
-Đã có lần anh trở lại Dục Mỹ, muốn về
thăm lại căn nhà trọ năm xưa, quân trường thì đã xóa sổ rồi, muốn nhìn con suối
nhỏ chảy róc rách sau hiên nhà…, nơi có quá nhiều kỷ niệm của cả một đám bạn,
và em.., nhưng tất cả đã không còn nữa. Anh về qua đó thấy buồn đến nẫu người
ra. Không còn một người quen, không có căn nhà nhỏ, dĩ nhiên không có cả tiếng
cười, tiếng đàn, giọng hát. Bây giờ tất cả đều xa lạ, có những căn nhà lầu chắn
ngang tầm mắt, dòng suối thì xác xơ, dơ bẩn, cuộc sống ồn ào, người người hối hả….Lần
đó anh đã ngồi ngang cầu mà khóc, thiên hạ nhìn chắc nghĩ anh là “ông già
điên”. Anh giở bức hình mình chụp với nhau năm xưa, bức hình anh mang theo mãi
bên cạnh cuộc đời anh, anh ngắm nhìn mãi và cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ, nhưng biết
là chẳng bao giờ mình có lại được những ngày vui ấy nữa….
Anh ngồi kể chuyện đời anh sau những
tháng ngày nghiệt ngã, những ngày “tù cải tạo” vô cùng cực khổ, cái đói thường
xuyên đến nỗi có hôm phải ăn lá giang để đỡ đói, lao động cực khổ trăm bề đến
hơn bốn năm mới được thả về và sau đó có người con gái trong xóm đã chịu về làm
vợ anh. Nghe anh kể chuyện khiến chị em tôi cứ mãi sụt sùi. Bỗng chị tôi phán một
câu làm chúng tôi chưng hửng: “À cậu Ph. đây phải không? May quá, hồi xưa má chị
hay la: con T. mà lấy nó chỉ có nước bốc mắm mà ăn! T à, em …may lắm, nên không
phải ăn mắm đều đều!” khiến cả nhà cười vang, chắc Ba tôi cũng đang nhìn xuống
chúng tôi ngạc nhiên tự hỏi: sao chúng nó vừa khóc vừa cười?
Người Lính năm xưa chào từ giã ra về,
không quên cho tôi xem lại bức hình năm cũ. Dù tôi có ngỏ ý xin làm kỷ niệm,
nhưng người Lính đã ngần ngừ và cuối cùng từ chối thẳng: anh đã giữ nó trong ngần ấy năm dài, hãy để anh giữ mãi bên đời, đến
khi xuôi tay nhắm mắt. Em còn có một gia đình êm ấm, hãy giữ lấy gia đình của
mình, đừng nghĩ gì đến bức hình cũ năm xưa…..
Lê thị Hoài Niệm.