NGƯỜI XƯA
Lê Thị Hoài Niệm.
Hình Tháp Bà Nhatrang xưa. |
hình từ internet. |
Nhìn mấy ông “Thầy” làm ăn khấm khá mấy ngày gần
Tết và sau Tết mới thấy mừng cho họ. Không biết quý Thầy có ngón nghề nào chân
chính không? chứ với khoảng sân tối mờ mờ, ngọn đèn điện từ vách Tháp rọi xa xa không rõ gì mấy, mà
người lượn qua lượn lại khá đông, nhưng cái bàn ngồi của họ cũng đâu vào đó lắm.
Chỉ cần vài quyển sách…Hán tự, có chữ viết kiểu Tàu mà mấy đứa học tiếng Việt
chẳng biết nói cái chi chi, rồi năm ba tờ sớ màu vàng vẽ ngoằn ngoèo nằm chễm
chệ trên bàn, với ngọn đèn dầu mờ mờ ảo ảo có vẻ huyền bí, linh thiêng, có bàn
còn thêm cái lư hương đốt trầm tỏa mùi hương thoang thoảng, với ông già mặc cái
áo chùng thâm, đội khăn đóng đen với cái kính cận trên mắt là ra …Thầy rồi, dù
rằng bên duới bàn, với đôi chân chắc cũng…. khẳng khiu như đôi bàn tay, lại được
phủ cái quần màu cháo lòng và đôi dép Nhật(?) là đủ cho các bà các cô “tin tưởng”
nhờ giải quẻ xăm rồi, nhiều lúc đi ngang nghe…lóm họ giải xăm kiểu ‘huề vốn” tức
cười quá mà chẳng dám cười. Nhưng không có họ ở những nơi tụ tập “linh thiêng”
như thế này, những ngày Xuân…mất ý nghĩa. Trong khi mấy Thầy đồ viết câu đối chỉ
xuất hiện ban ngày và trong sách vở mà thôi.
Trong lúc mấy bạn
của anh tôi đang chạy theo mấy trái khói màu, do họ thả…sáng cả con đường trước
nhà, khiến những đứa trẻ trong xóm cũng tụ lại mà chạy theo la ó, cổ võ om sòm,
làm rộn ràng cả khu phố nhỏ, có lúc “bị” xe quân cảnh chạy ngang lên tiếng…cấm
đoán không được thả nữa, nhưng mấy ông Lính với nhau mà, họ cười hề hề chờ khi
xe quân cảnh đi rồi thì đâu lại vào đó. Vả lại những trái khói màu này được mấy
anh “xin” từ bên ban “vũ khí” bạn ngoài bãi tập, cứ thỉnh thoảng họ xin vài
trái và để dành cho “đêm giao thừa” về nhà thắp sáng mừng Xuân mới.
Chờ hoài không
thấy anh H. đưa xe đến, mấy đứa em tôi nóng ruột và cứ đi tới đi lui, có đứa
còn ra tận đầu đường xem có bị kẹt gì không mà sao xe không thấy đến? Đang lóng
ngóng thì nghe nhiều tiếng… nổ, ban đầu tưởng người ta đốt pháo sớm. Nhưng tiếng
nổ nghe lạ lắm, gần giống như tiếng súng, Anh tôi và mấy người Lính bạn bảo thế.
Họ ngạc nhiên hỏi nhau sao lại có nhiều tiếng nổ lạ? trong khi đêm giao thừa có
lệnh “hưu chiến” từ hai bên, nên những người Lính mới được về nhà đón giao Thừa?
Cả đám đang ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra, khi thấy ở đầu đường bắt đầu
có người nhốn nháo chạy tới chạy lui, thì ông bác sĩ Hà Thúc …, người đang ở
căn nhà đối diện, sà ngay cái xe Vespa lại và la lớn:
-“Mấy cô cậu vào
nhà nhanh lên đi, Việt Cộng về chạy đầy đường P.H. kia kià! Tôi từ bệnh viện về
đây mà đã bị kẹt đường, vì có quá nhiều người chạy bạt mạng trên đường, họ còn
có trang bị vũ khí nữa, đừng ra đường bây giờ rất nguy hiểm, vô nhà ngay đi,
đóng cửa lại!”
Việt cộng về? chuyện
gì lạ vậy? nhất là mấy ông anh sĩ quan huấn luyện viên ở quân trường, người nào
cũng trợn mắt ngó nhau, và không ai có câu trả lời cho nhau mãi đến khi nghe
quá nhiều tiếng nổ từ khu Máy nước gần nhà nhất, nên cũng….hoảng kinh và chạy hết
vào nhà để…nghe ngóng tin tức…
Đó là đêm giao
thừa của Tết Mậu Thân. Một đêm dài thật dài sợ hãi với nhiều tiếng súng nổ khắp
nơi, khi ở đài phát thanh không còn phát đi những giọng ngâm thơ “Tao đàn” giữa
đêm về sáng, không còn nghe giọng ngâm thơ thật điêu luyện của Hồ Điệp, của Mai
Hiên, của Hoàng Oanh, Đoàn yên Linh,v..v..và tiếng sáo trúc réo rắt, ru hồn của
Tô Kiều Ngân với những bài thơ tình thắm thiết, những bài thơ nói lên tâm tình
của người Lính trận miền xa gửi về cho người em nơi…hậu tuyến. Không có tiếng
pháo mừng xuân nổ râm ran làm rộn lòng người và sau đó là bài “Ly rượu mừng” rộn
rã của N/S Phạm đình Chương với những tiếng hát của ban hợp ca Thăng Long.
Không còn nghe lời hiệu triệu của TT gửi cho toàn dân cả nước, thay vào đó là những
tiếng súng nổ, và đài phát thanh thì phát nhạc hùng từng chập.
Sáng sớm mồng một,
Trong lúc anh tôi và bạn của anh chuẩn bị trở về lại đơn vị, thì tôi cùng cậu
em nhỏ xách xe Mobyletle chạy ra phố (Thời gian này xe Honda còn hiếm), mặc dù
ba má “cấm đi”, vì sợ hai bên còn …đánh nhau, dễ bị tên bay đạn gửi. Nhưng tánh
tò mò vẫn thôi thúc, vả lại trên đường phố cũng đã có người đi lại nhiều rồi. Từ
nhà chạy hết con phố ra ngay ngả sáu, chạy hết con đường Bá Đa Lộc và chạy về
khu vực Ty bưu điện gần tòa Tỉnh, quang cảnh đập vào mắt chị em tôi là những “thi
thể bộ đội” trẻ măng, mặc “đồng phục” kaki vàng ngắn tay và quần short, nằm sóng
soài trên vũng máu, có người nằm sấp, kẻ nằm cong queo nhiều và nhiều lắm. Chắc
có “lính mình” nhưng đã được đưa đi nhà thương hoặc nhà xác? (Về sau mới biết bọn
cộng sản ‘được lệnh” về để “tiếp quản” thành phố, nên chúng có mặt trên Chùa Phật
Học, ngoài Tháp Bà, nhất là khu Đài phát thanh, và chúng cứ đi tự nhiên như vào
chỗ…không người, mãi đến khi những đơn vị phòng thủ phác giác, họ đã đánh nhau
kịch liệt nên bọn chúng chết nhiều vô kể).
Sợ quá chị em tôi
phóng vội về nhà, thì gặp đoàn xe nhà binh chở đầy Lính với quân trang súng ống
đầy người, và họ thả từng tốp, từng tốp xuống canh gác trên những góc đường.
Thì ra họ là những người SVSQKQ đang thụ huấn trong quân trường NT, và ngay trước
cửa nhà tôi cũng có mấy ngưới Lính được thả xuống. Trong số đó có Anh.
Trong khi tôi ngạc
nhiên sao có sự “trùng hợp” hy hữu khi anh đã được phân phối giữ an ninh tại
khu vực nhà tôi, thì anh lại nheo mắt ngó tôi cười mỉm chi rồi lên tiếng:
-Hết dấu được nữa
rồi nhé cô bé.
-Ai mà dấu anh
làm gì, nhà tôi ngay phố đây này, anh đã biết rồi đó..
-Xem như hôm
nay…xui mà hên!
Tôi dắt xe vào
nhà mà đầu óc lại nghĩ đến ông SVSQKQ đang đứng gác ngoài cửa mà cười hoài. Nhớ
lần đầu tiên gặp anh tại nhà chị Ng, người chị học cùng trường trung học nhưng
trên một lớp. Chị nguyên là người miền sông nước Hậu giang, ba má chị làm ăn buôn
bán ngoài này, nên cả gia đình dọn hết về để cho chị và mấy người em dễ dàng đi
học. Nhớ có lần chị bảo tôi thử đoán cái làng quê của chị tên gì từ những phần
trên khuôn mặt. Gì kỳ vậy? trên khuôn mặt thì chỉ có mắt, mũi, má, miệng…thì làm
sao có cái tên làng? Vậy mà có đó! Chị bảo tôi khi hả họng ra sẽ thấy gì? Răng
và lưỡi. Ừ thì làng chị có tên là…Cái Răng! hahaha. Lần đó tôi cười quá mạng và
cũng nhớ đời tên làng quê mộc mạc của chị.
Bữa đó nhà chị
Ng. có đám giỗ, chị kêu tôi ghé qua chơi đúng giờ khách khứa nhà chị về gần hết.
Chơi gì mà chơi, đi
ăn giỗ rõ ràng mà! Vì chúng tôi thân nhau, nên mỗi lần tới nhà nhau, cái mục chưa
thấy hình ảnh đã nghe âm thanh là chuyện thường tình. Khi bước vào nhà trên chẳng
thấy ai, tôi bèn ngâm nga “Tai nghe có
đám giỗ gần, trong bụng bần thần chẳng muốn nấu cơm”! Chưa dứt câu đã nghe
nhiều tiếng vỗ tay từ nhà dưới và vài tiếng cười nho nhỏ kèm theo.
Trước mắt tôi, trên
bàn ăn, ngoài chị Ng, còn có ba ông SVSQKQ với bộ quân phục…đi phố màu vàng ngồi
chễm chệ ở đó. À
thì ra bữa nay là chiều thứ sáu, nên những người SV này có thể ra sớm, chắc để ăn
đám giỗ?.
Quê thật là quê,
mà không có lỗ nẻ nào để chui, tôi đành trơ mắt ngó mấy ông mà …quên cả chào hỏi.
Chị Ng, cười ha
hả và giới thiệu tôi cho ba ông SVKQ xa nhà.
Gì chứ mục quen
với mấy ông lính ở quân trường, tụi học trò chúng tôi…rành quá. Mấy ông đến đây
học, nếu có gia đình, thân nhân, bạn hữu, thì những ngày cuối tuần có nơi chốn
để…về, còn không có, đích thị là con…bà phước, nên khi quen được cô gái nào là…may
mắn lắm. Dù mai kia mốt nọ có nên duyên thì âu “cũng là cái số”. Còn không thì
cũng….đỡ buồn những chiều cuối tuần khỏi lang thang ngoài phố mình ên (?).
Anh là người cùng
quê với chị Ng, người miền sông nước hậu giang nên nói chuyện rất tự nhiên và cũng
cởi mở lắm, nhất là anh lại là một “Huynh trưởng gia đình Phật Tử”. Chả bù với
hai ông bạn người Huế đi cùng, họ thật ít nói, mà khi họ nói câu gì thì tôi cũng
ú a ú ớ, phải lắng tai nghe kỹ mới biết họ nói cái chi chi. Không quen nghe giọng
Huế đó mà.
Thỉnh thoảng tôi
cũng gặp lại anh, thường là ngoài …bãi biển cuối tuần, khi cả đám bạn chúng tôi
kéo nhau ra ngoài đó…phá mấy ông SV Hải quân, SV Không quân chơi. Thành phố của
Lính mà, nhất là Sinh viên từ các quân trường. Nhưng lần nào lỡ gặp anh, tôi cũng
hỏi vài ba câu xã giao và …phóng lên xe đạp dọt lẹ, chẳng dám đùa.
Chị Ng. vài lần
hỏi tôi có muốn cho anh số nhà không? Vì anh nhờ chị hỏi dùm. Nhưng không đâu,
tôi biết chị Ng. thương quý anh lắm. Nhiều lần chị thổ lộ tâm can rằng chị muốn
cho anh biết tình cảm của chị, nhưng sao thấy anh lơ lơ, nên chị đành câm nín.
Ngoài tình cảm của “người đồng hương” anh dành cho chị, thì tình cảm giữa hai
người khác phái anh đang gửi đâu đâu. Biết chuyện của họ, tôi không…ngu gì mà
chui đầu vào để làm khổ người bạn thân thương của mình.
Và hôm nay, Trời
xui đất khiến gì mà anh lại đi đứng gác, giữ bình yên cho khu phố nhà tôi sau một
đêm cộng sản xâm nhập, tấn công nhiều nơi trong thành phố. Và anh khỏi cần hỏi,
cũng đã biết địa chỉ nhà tôi, nên sau mấy ngày …đứng gác, anh đã là khách đôi
ba tuần một lần đến nhà tôi, và…thỉnh thoảng buổi tối, anh “chui hàng rào” khoảng
đầu đường số năm ra thăm viếng nhà tôi xem có gì…khác lạ.
Anh ghé nhà tôi thường
là vào sáng chủ nhật, tuy tiếp anh, nhưng tôi không thấy thoải mái chút nào, mỗi
lần nói chuyện tôi đều nhắc đến chị Ng., nhưng anh cứ…tảng lờ, làm câu chuyện của
chúng tôi mất phần…hào hứng. Nhiều bữa tôi rủ chị Ng. lên nhà tôi sáng chủ nhật
để đi phố, nhưng thật ra để chị gặp anh không chừng. Sự quen biết giữa chúng tôi
cũng lưng chừng đến đó, mãi đến khi anh về Sài gòn để chuẩn bị du học Mỹ.
Từ thành phố
Lackland, anh cũng có gửi thư về cho tôi hình như…nhiều hơn chị Ng. Tôi thuơng
chị ấy về mối tình một chiều của mình, nhưng không biết cách nào để họ thật sự
đến với nhau. Vả lại đứa nào cũng phải học thi, nên bù đầu bù cổ học bài, chị
thì quyết chí cho xong bậc trung học để về Sài gòn học đại học, còn tôi cũng phải
trót lọt kỳ thi để đi lên năm cuối. Thỉnh thoảng tôi cũng nhận được vài gói qùa
nho nhỏ từ Mỹ như hộp bút lông (hồi đó quý lắm), thỏi son môi, hộp bút chì sáp vì
anh biết tôi thích vẽ. Nhưng tất cả không dám đem khoe với chị Ng., ngại chị buồn.
Có lẽ thấy tôi chậm
chạp hồi âm thư, hay anh biết tôi chẳng mặn mà gì về mối tình “Em hậu hương, Anh
tiền tuyến”. Nên ngày anh về nước nhận nhiệm sở ở miền Tây, quê hương xứ sở của
anh, thì tôi cũng chỉ chúc cho anh “Vạn sự cát tường” vào mùa Xuân năm đó. Chỉ
thương chị Ng. mãi mãi ôm mối tình câm, vì sau vài năm làm người lính đi mây về
gió, anh đã kết “thuyền hoa” để rước người khác phái về đan khăn ấm…
Mấy năm trước tôi
về thăm nhà, đến thăm chị Ng., chị vẫn một mình một bóng trong căn phố rộng sau
khi về hưu không còn làm giáo sư môn anh văn nữa, hiện làm bạn với chú chó con
rất dễ thương. Ba má chị mất lâu lắm rồi, người anh lớn cũng đã mất. Tôi có hỏi
thăm tin tức về “người xưa”, mà chị đã từng dành nhiều tình cảm cho. Chị nói
“biệt tin Người” từ những ngày tháng đó, nhưng chị có về lại làng xưa vài năm
sau để hỏi thăm, thì đưọc biết anh đang là…tù cải tạo tận miền Bắc xa xôi không
biết ngày về, và sau đó bặt tin luôn. Tôi cũng chia buồn với chị chứ đâu biết nói
gì hơn.
Năm kia, người bạn
đi họp khóa KQ mừng Xuân ở Cali cùng chồng, Chị có chụp rất nhiều hình của những
người bạn cùng khóa với chồng chị, cũng cùng khóa với anh năm xưa. Tôi nhìn kỹ
hình như có anh trong đó, vì không có ghi chú tên từng người. Tuy có nhiều thay
đổi trong vóc dáng, nhưng khuôn mặt vẫn còn nét hiền hòa dễ mến dễ nhận ra. Cô
bạn có hứa Tết năm nay rủ tôi đi cùng, may ra gặp lại anh để thăm hỏi cho…phải đạo.
Nhưng rồi con cúm Hán trời ơi đất hỡi, đã làm cản trở mọi dự định của những ngày
gần cuối đời một con người.
Hy vọng ngày mai
trời lại sáng và cũng hy vọng gặp anh một lần, nếu không phải mời…ăn giỗ?
Lê Thị Hoài Niệm.