Thứ Năm, 24 tháng 9, 2009

ĐONG ĐƯA NGÀY THÁNG



Buổi sáng ông dậy thật sớm, theo thói quen nấu một ấm nước sôi, pha bình trà nóng. Trong khi chờ đợi, ông làm một ít động tác thể dục cho xương cốt khỏi cứng đơ, đó là một bài tập tai-chi, mà người bạn đã dạy lại cho ông từ bữa đến nhà chơi năm trước.


Rồi ông mở cửa ra vườn sau, trên những lá cây non còn đọng những hạt sương long lánh, không khí mát dịu hoà cùng mùi thơm của hoa lài, hoa ngọc lan, hoa nguyệt quế, hoa hồng v.v.v., hàng chục thứ hoa trong vườn quyện vào nhau làm ông choáng ngợp trong thích thú, sảng khoái vô cùng.

 


Hai vợ chồng con chim cu đất đang nằm ấp trứng trên chậu cây, đưa ánh mắt đen lay láy và vô cùng thân thiện nhìn ông, ông nhè nhẹ đưa tay vuốt đuôi con chim cu trống. Con chim mập ú, no tròn, thường ngày vẫn lấy thức ăn ông để  trên cái máng nuôi chim đặt ở mảnh đất vườn sau.



Hôm nay nó vẫn nằm im không bay đi, chắc là con chim con sắp sửa ra ràng, nên hai “vợ chồng chim” phải canh gác thật cẩn thận làm ông thêm vui thú trong lòng. 
Đúng là “đất lành chim đậu!” Cặp vợ chồng chim này hằng năm vào đầu mùa Xuân, vẫn tìm đến nhà ông để làm công việc truyền giống, cùng một thời gian, cùng một chậu hoa chưa bao giờ ông thay đổi chỗ, chúng đẻ rồi ấp mỗi lần chỉ có hai trứng chim, và luôn nở trọn được hai con chim con, đến khi chúng đủ lông đủ cánh bay đi được là vợ chồng, con cái cùng dắt dìu nhau bay đi mất biệt, muốn gặp lại chúng phải chờ mùa xuân năm tới.
   






Cầm vòi nước tưới đều cho những chậu cây trong vườn, là lúc tiếng chuông cửa reo vang, ông chạy vội vào nhà và đến mở chốt cửa trước, người mẹ bồng đứa con nhỏ trên tay, tay kia khệ nệ xách cái giỏ, trong đựng nào tã, nào sữa lảng cảng, lỉnh kỉnh, ông vội mở toang cánh cửa và đưa tay xách hộ cái giỏ cho người mẹ trẻ, bà vợ ông từ trong bếp chạy ra bồng đứa bé đặt vào cái giường ba-by để sẵn nơi phòng khách, người mẹ trẻ dặn ba điều bốn chuyện gì đó rồi vội vã ra xe, tiếng xe chưa rời thì đã có tiếng chuông reng, ông đi ra mở cửa, thằng bé cỡ hai tuổi cứ níu lấy áo mẹ, giùng giằng chẳng chịu bước vào nhà khiến cho ông phải giữ hoài cánh cửa, người mẹ năn nỉ hồi lâu thằng bé mới chịu líu ríu cầm tay ông để bước vô nhà, nhưng vẫn ngoái cổ nhìn xem mẹ đã đi chưa.Cầm tay đứa bé mà ông chạnh lòng.

Ông bà ngày xưa thường hay nói: “Bảy mươi chưa què đừng khoe rằng lành”. Nào ai biết được mẹ của đứa bé này bây giờ phải lâm vào cảnh “single mom”. Một mình mang vào người đứa con có cha mà cũng như không. Ngày trước, mẹ của bé là con nhà danh gia, lập gia đình với một người Mỹ bản xứ, thuộc loại  “đẹp trai, con nhà giàu, học giỏi” . Nhiều người trẻ ước mơ, lắm kẻ đem con mình ra so sánh, người nào cũng trầm trồ khen ngợi sao mà tốt phước! Vì là con nhà triệu phú, nên anh ta dù có bằng cấp Luật sư, vẫn không thích đi làm.

Nhưng họ vẫn vui vẻ, hạnh phúc trong một thời gian. Khi cô vợ sinh cho chàng ta hai đứa con có trai có gái, hạnh phúc từ từ rời xa họ, để đến một ngày dắt nhau ra toà án ký giấy chia tay. Đời buồn không dừng lại nơi đó, chuyện con cái như chiếc dây thòng lọng làm khổ đời cô, ban đầu cô được giữ con, người chồng cuối tuần đến đón. Nhưng với tiền rừng bạc bể, chàng ta cứ đem sự việc ra toà kiện cáo đòi bắt con. Theo kiện hoài có bao nhiêu tiền cũng cạn, cô buông xuôi cho người chồng nuôi con, thế cũng xong! Trong nỗi cô đơn của người mẹ trẻ, cô có người bạn trai mới đến an ủi, chăm nom, và rồi đứa bé này ra đời và cô nhất quyết giữ lấy cháu bé, không cho người cha thừa nhận con? sợ nếu có chuyện gì không may nữa xảy ra, con mình lại vuột khỏi tầm tay mình lần nữa. Cô quyết một mình nuôi con.   




 Mấy lần mở cửa, mấy lần đóng, nhà ông bây giờ là một “vườn trẻ tình thương”. Vì trong đám con nít loi choi lóc chóc kia, có cả hai đứa cháu nội- ngoại của ông nữa, cha mẹ chúng cũng đem giao chúng cho ông bà coi dùm để tiện việc đi làm, lắm lúc chúng còn than vãn mới có  một  đứa con mà bận quá…“lo không nổi”! Nghĩ đến ba chữ đó ông thắt ruột và càng thương bà vợ vô cùng.  Những ngày xa xưa đó, ông đi lính trận miền xa, bà ở nhà cũng phải đi làm, mà một nách bầy con dại, cũng nuôi nấng đàng hoàng, tại vì mỗi lần ông về phép là một mầm sống tượng hình, để đến ngày tàn cuộc, đứa bé nhất mới tròn hai tháng tuổi. 

Những ngày dài nối tiếp là chuỗi dài khốn đốn cho người vợ trẻ của ông, thân ông tù tội cực khổ, đói rét đã đành,  bà ở nhà còn phải chịu trăm cay, ngàn đắng, một mình tất tả, ngược xuôi, vừa lo lắng nuôi con, vừa lo bới xách thăm nuôi chồng tù tội. Đến khi sang tận bên này, cũng đi cày mút chỉ, mà vẫn không sót trách nhiệm với con, giờ đứa nào cũng có gia đình, có công việc ổn định, vậy mà nuôi có mỗi đứa con cũng …than trời!

Nói nào ngay, từ khi đặt chân lên xứ sở này, vợ ông, người đàn bà cũng một thời áo dài, giày gót nhọn ngồi trước bàn máy đánh chữ như ai, đi làm hãng điện tử được một thời gian, bỗng chốc trở thành chị vú em chuyên nghiệp sau chỉ có một ngày huấn luyện để lấy licence!

      


Và ông, từ lúc quyết định ..retire non, là đường tương lai đã đi vào ngõ cụt! Nhiều lúc ông tự hỏi đã quyết định đúng hay sai? Ngày ngày, công việc bắt đầu từ buổi sáng vẫn là giúp bà lo cho bọn con nít lóc nhóc đủ cỡ tuổi, từ việc thay tã, làm bình sữa, giúp cho em bé bú, rồi đổ rác, phụ nấu cơm, có khi chạy ra chợ mua dùm bà bó rau, miếng đậu  hũ, hay dĩa bánh bèo, ông thấy mình cũng được việc ớn, đâu phải kẻ vô công rỗi nghề, lại có  thêm được nghề mới, nghề nào chẳng là  nghề, miễn do sức lao động của mình làm ra, đâu phải  ăn bám xã hội. 

 “Sáng chủ nhật rồi anh đi lính không tới nhà thăm em, chắc là em mong lắm phải không khi vắng bóng người yệu? Rồi đây những ngày anh vắng bóng em có còn đi nữa không ? Đường đông, nhưng mà anh đâu có để mà em khoe áo hồng?

 Vừa đẩy cái máy cắt cỏ với những tiếng nổ rầm rầm, vậy mà miệng ông vẫn còn hơi để lẩm nhẩm mấy lời ca ông thích thuở nào. Ôi! Thời gian cứ y như “bóng câu qua cửa sổ”. Mới ngày nào cũng sáng chủ nhật đẹp trời, ông oai vệ hiên ngang trong bộ quân phục quân trường, lạng lên lạng xuống qua con ngõ nhà ai, rồi sau đó nhận sự vụ lệnh ra đơn vị chiến đấu, anh dũng oai hùng đánh giặc bao nhiêu năm, để rồi…

Hôm nay đây cũng là một sáng chủ nhật trời trong và gió mát, nhưng chẳng thấy em nào “mong lắm” cả, ngoại trừ cái máy cắt cỏ và đám cỏ mọc lởm chởm ở sân trước, sân sau. Ông nhớ lại lời ông bà xưa: “Trời sinh voi, sinh cỏ”! nhưng nghiệm lại ở xứ này coi mòi trật lấc, Voi thì được nuôi nấng kỹ càng trong sở thú có cặp có đôi, lâu lâu sinh được chú voi con, bàn dân thiên hạ mừng rỡ  như bắt được…voi. Rồi đem chiếu lên truyền hình cho toàn thể dân chúng mừng ké. Voi được o bế như thế nên cỏ cho voi ăn chưa hẳn do trời sinh(?).

Đi khắp xứ sở này, thấy chỗ nào cũng cỏ mọc xanh rì, phẳng lỳ như tấm nhung tơ, nhưng chẳng phải do trời sinh sao có vậy đâu à. Muốn cỏ đẹp phải mua đúng cỏ về trồng, rồi sáng sáng, chiều chiều phải tưới nước đều đều, rồi phải mua phân về bỏ xuống, rồi phải chổng mông lật cỏ dại, để rồi cuối tuần phải…cắt! Nhà ai loạng quạng không chịu “tết-ke”, để cỏ hơi cao lùm xùm một chút, là cứ y như rằng có giấy gửi tới nhà …cảnh cáo, lần sau bị phạt. 

Nói gì thì nói chứ cắt cỏ, quét lá cũng là một nghề nữa của ông. Trong nhà cũng có thằng con trai, nhưng không hiểu tự bao giờ, nó thẩm nhập câu tục ngữ: “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!”, mà vì nó không có cô  chú bác gì ở đây, nên có bao nhiêu công sức nó đều dồn vào nhà bạn gái nó. Nghe đâu đám cỏ nhà người nó cắt láng coóng mỗi tuần, còn ở nhà ông thì hầu như nó …hổng thấy bao giờ. Bà vợ ông có khiếu nại thì nó xách xe dông tuốt. Rõ ràng “con hơn cha là nhà …tróc nóc!” Nhưng biết sao bây giờ?

Hôm nay chủ nhật, nhà ông yên tĩnh lạ thường, vì không có vườn trẻ tình thương. Sau khi cắt cỏ dọn dẹp cũng đã gần trưa, lại chuẩn bị đưa bà vợ đi chùa. Đi chùa xong lại thong dong đi chợThành phố Houston lúc sau này đông vui đáo để. Người ta xây dựng lên cả một khu thương mại hoàn toàn nói tiếng Việt nam vì bảng tên hiệu đều viết chữ Việt. Chỉ cần lái xe lên xuống hai vòng, hai bên đường đều có những cơ sở thương mại cần đến. Này nhé; đói bụng thì vào tiệm phở, tiệm cơm tấm, tiệm hủ tiếu hay bún bò, rồi vào quán nước, quán cà phê, nghe nhạc, thấy bài nào ưng ý, chui ngay vào tiệm nhạc để mua tí nữa đem về. Sẵn có nhiều sách báo, có báo biếu, báo mua tuỳ ý, trong khi chờ bà vô chợ, ông ngồi xem báo đỡ mất thì giờ. Ăn xong lỡ có đau bụng, hay lên cơn suyễn, thì phòng mạch bác sĩ cứ ..walk-in, bác sĩ cho toa qua tiệm thuốc sát bên là có thuốc, thuốc tây có ngại thì thuốc ta  cũng không phải đi xa.






Vô tiệm ăn “all you can eat”, ăn thả dàn lỡ bị trúng mẻ răng, có phòng nha sĩ sát bên cũng tiện. Ngồi lâu đau lưng quá thì vô tiệm đấm bóp cho đỡ đau. Chiều chiều buồn tình vô quán nhậu, lỡ có nhậu xỉn xô xát với nhau, cũng có trạm cảnh sát, sát bên ra phân xử. Nếu lái xe chí tử, đụng cái rầm mà xác còn, hồn đi, thì cũng có nhà quàn bên cạnh sẽ rước về sau khi đưa người đi giảo nghiệm ở nhà thương. Đến giai đoạn này thì khỏi phải bon chen chi cho mệt, cứ vô chùa nằm im trong bình đất mà nghe tụng niệm để hồn siêu thoát lên chốn thiên thai, nhưng có nhiều người lại bảo “về dưới” vui hơn lên trên đó (?)

 


Nói chung, nơi ông ở không thiếu một dịch vụ nào trong đời sống hằng ngày mà người sử dụng phải cần tiếng nói của người bản xứ, nên nhiều người mới đến đây vẫn sống phây phây, đâu cần học chữ của người Đong đưa ngày tháng như ông kể ra cũng quá lý tưởng. Nhưng trong ông vẫn vương vấn nỗi buồn. Vẫn mơ một ngày được trở lại quê xưa, sống lại thời trai trẻ, được “tự do” ăn nói chẳng chút ngại ngần, không phải bực mình vì những chuyện gai mắt, trái tai, không bị "ủ tờ" vì dám ngang nhiên bày tỏ lòng yêu nước của mình ..…Tất cả  quá xa vời, dù ông vẫn tích cực tham gia vào những buổi sinh hoạt cộng đồng, không biết những ngày ông còn tại thế, có đạt được điều ước mơ???

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2009

VÔ DUYÊN ĐỐI DIỆN


Nếu ai đó có ý gợi nhớ về Nha Trang, người ta hay nhắc đến thành phố có bờ biển dài và đẹp, với hàng dừa xanh nghiêng mình lả ngọn đong đưa theo gió, dõi theo những bước chân trần đùa vui trên cát trắng, lượn lờ, ve vuốt những cơn sóng bạc đầu chạy dài trên bãi, làm bạn đời với những hàng thông cắt xén thật công phu. Bên cạnh những thắng cảnh hữu tình như Cầu Đá, Tháp Bà, Hòn Chồng, Nhà thờ Đá, Chùa Phật học v.v.. Nhưng có mấy ai nhắc nhớ về một điểm đặc biệt, đó là mấy cái... chợ. 
Xem trước
bãi biển Nha trang

 


Thật vậy, mỗi khi định hướng chỉ đường, người ta không chỉ về hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, mà thường lấy chợ làm chuẩn như: chị Hai ở gần chợ Đầm; Cô Ba ở sát chợ Sinh Trung, thiếm Tư ở khu chợ Xóm Mới, anh Bảy lại ở gần chợ Phương Sài, hay bác Năm ở tít chợ Phước Hải. Và không biết có phải vì Nha Trang đẹp, Nha Trang có nhiều phong cảnh hữu tình, có khí hậu mát mẻ, hay tại Nha Trang có nhiều chợ, sẽ có nhiều cô gái đi mua sắm, và ông trời cắc cớ muốn se duyên cho những người hùng thời đại, phù hợp với câu ca dao “Trai khôn tìm vợ chợ đông, gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”, mà ở Nha Trang không phải chỉ có ...ba quân mà đã có quá nhiều quân, ngay cả những nơi đào tạo quân nữa kìa.

Xem trước
nhà thờ Núi
Xem trước 





Nếu đi đường Duy Tân hướng về tiệm phở Chụt gần cầu Đá, chắc chắn phải qua “Trung tâm huấn luyện Hải Quân”, nơi đào tạo hầu hết những Sĩ quan ưu tú của ngành lính biển, cạnh bên trại Tây Kết, cũng là đơn vị của những người trai yêu sông nước hải hồ (?). Băng qua con đường đi Bình Tân là phi trường rộng mênh mông với phi đạo dài ngoằng, ôm hẳn một đoạn đường ven bãi biển.




Đi vào bên trong cổng Long Vân, là gặp ngay “Trung tâm huấn luyện Không Quân”, nơi đào tạo hằng hà sa số những tài xế máy bay đi mây về gió, không bao giờ “có quân” dưới trướng, những sĩ quan kỹ thuật, và ngay cả những người lính không quân thực thụ. Cạnh đó là cả một không đoàn 62 chiến thuật của Sư đoàn 2 Không Quân với thật nhiều phi công của nhiều loại máy bay khác nhau, như trực thăng; khu trục, máy bay bà già hay vận tải cơ cỡ bự, rồi thêm bên ngành kỹ thuật...

ảnh từ cánh thép phi trường NT
Lính dưới nước, lính trên trời đều ngự ngay trên phố biển, khiến cho những người lính Bộ cũng chẳng chịu thua. Chỉ cần đi về hướng Bắc của thành phố, qua khỏi cầu Bóng, vượt qua ngả rẽ xuống Hòn Chồng, là gặp ngay làng Đồng Đế, tại đây lại có một quân trường, đã đào tạo không biết cơ man nào là Hạ Sĩ Quan cho binh chủng Lục Quân, với tên gọi thân thương: “Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế”,(có một thời gian ở những năm 70, nhiều khóa Sĩ quan cũng được huấn luyện ở đây) mà có một dạo, người dân Nha Trang đã phải nghe câu thơ buồn tê tái: “rớt tú tài anh đi trung sĩ, em ở nhà….!”



Nhưng chưa hết đâu, rời thành phố Nha Trang đi về hướng Bắc hơn 30 cây số, từ Ninh Hòa rẽ về hướng Tây, lại gặp phải “trường Pháo Binh Dục Mỹ”, chỗ huấn luyện những người lính chuyên bắn súng ‘Cà nông”, rồi có cả “Trung tâm huấn luyện Biệt động quân”, nơi đào tạo những người lính mũ nâu “sát-sát”. Dưới chân đèo Phượng Hoàng là “Trung Tâm huấn luyện Lam Sơn”, những người chiến sĩ phục vụ hầu hết những đơn vị ngoài chiến trường miền Trung, đều được đào tạo ở trung tâm này.



Thành phố Nha Trang vào những ngày lễ lớn hay cuối tuần, đường phố hầu như có đủ mọi sắc lính. Này là những chàng sinh viên Hải Quân với bộ lễ phục trắng tinh, mũ trắng, dây biểu chương toòng teng, giày chùi láng cón. Còn sinh viên sĩ quan Không Quân lại mặc màu vàng, cũng đủ mũ-giày-dây nhợ chẳng thiếu thứ chi, chưa kể một số đã là... tài xế máy bay với áo liền quần màu đen hoặc xám, có ca-lô đội lệch trông oai nghi, đẹp đẽ vô cùng, họa hoằn lắm mới thấy bộ màu cam. Rồi khóa sinh hạ sĩ quan cũng đồng phục màu vàng, cũng phù hiệu quân trường, chỉ thiếu dấu alpha trên vai áo. Rồi thì xe Jeep nhà binh chở mấy chàng pháo thủ, xe Honda đèo lính biệt động miền xa...


Bởi vậy nên thành phố Nha Trang đông vui qúa cỡ, quán xá buôn bán tấp nập, chợ búa đầy người và con gái Nha Trang lúc nào cũng có ... giá! nhất là đám nữ sinh áo trắng. Nhạc sĩ Phạm đình Chương bảo: “Anh đi chiến dịch xa vời, nòng súng nhân đạo cứu người lầm than!” Người ta đi lính là để giữ gìn an ninh cho đất nước, nếu không tình nguyện thì cũng bị bắt buộc phải đi …thi hành nghiã vụ quân sự, có nhiều nhiệm vụ, chức năng mà người lính phải nhận lãnh, phải chu toàn trách nhiệm, khổ ải vô vàn. Ấy vậy mà hầu như bọn con gái choai choai ở Nha Trang lại có toàn quyền chọn binh chủng, nếu thích làm “người yêu của lính”.
Xem trước
Hn chụp ở Hòn Chồng NT
 





Nói nào ngay, hồi đó đa số các cô thích chọn lính áo liền quần, đi mây về gió, có bộ vó bảnh trai, tuy rằng có lúc chẳng có một đồng xu trong túi, ăn cơm tháng Thọ Lộc hay Hoài Linh thì ghi sổ dài dài, nếu không chịu đóng tiền từ đầu tháng, nhưng chuyện đó hạ hồi phân giải. Cô nào có máu ưa phiêu lưu thích người hùng, thì chọn lính rừng, lính Biệt động, lính Nhảy dù cho oai phong lẫm liệt, nếu nghĩ rằng ít có cơ hội làm góa phụ ngây thơ thì chọn lính pháo binh, hay huấn luyện viên ở quân trường. Và khổ nỗi, không biết tự bao giờ và tự nơi ai mà lại có câu than bất hủ: “Thà chết cạnh rừng mai hơn là chết trên vai anh cánh gà!” Nên trại tiếp tân ở quân trường Đồng Đế, dù cũng gần bãi biển, có gió mát, có sóng gào, có tượng đá hùng dũng hiên ngang “Anh đứng muôn đời thao diễn nghỉ, Em nằm xỏa tóc đợi chờ mong”, nhưng chỉ thấy mấy bà Mẹ già, bà chị lớn, em thơ mà ít thấy bóng hồng từ Nha Trang ra viếng. Chả bù với quân trường Hải quân và Không quân, vào những buổi lễ gắn alpha hay mãn khóa là cứ y như rằng có vô số người đẹp sẵn sàng ăn mặc thật đẹp, ngồi xe lam đến để chia vui, để chúc mừng và có khi đến để... khóc chia tay nữa.




Và tôi, cũng tại, bị, vì mê biển hay nói đúng hơn là thích tắm biển, nhất là những ngày nghỉ hoặc cuối tuần, mới hơn bốn giờ sáng là tôi đã có mặt ngoài bãi rồi, lúc đó tận phương đông xa tít chỉ thấy một vầng hồng lờ mờ gối đầu lên mặt biển xanh, không khí trong lành mát mẻ làm sao! Gió lờn vờn xoay nhẹ quanh người, biển êm, nước lặng như mặt hồ, không có thú nào hơn là cứ đi nhè nhẹ, nhè nhẹ ra xa đến khi làn nước âm ấm sắp ngập tới đầu, là xoải mình nằm thả ngửa, nếu đừng có những tiếng nói chuyện, tiếng cười đùa của những người bạn chung quanh, tôi nghĩ mình có thể nằm ngủ được, và khi mặt trời ửng đỏ, vài đợt sóng lăn tăn vỗ nhẹ vào bờ, là tha hồ bơi lội.

Bởi thích biển nên tôi muốn chọn lính biển làm người hùng. Có lúc mấy đứa bạn bảo tôi... khùng, quen chi lính biển để rồi phải chờ đợi: “tàu dzìa bến anh hẹn mình dạo phố!” (Tụi nó quên còn nhiều HQ đang ở quân trường). Chúng còn phân tích những điều kiện ắt có và đủ của quí chàng để có thể giung giăng giung giẻ với bọn tôi ngoài phố, rằng có lẽ vì mấy chàng bận học quá (ban toán mà lị) nên ốm cà tong cà teo, có chàng thì cao lêu nghêu như cây nêu ba ngày tết, còn chàng thì hơi thiếu thước, và có nhiều chàng lại phải mang đôi kính dày cộm như hai cái đít chai. Nói chung là có bộ vó ít đẹp giai (xấu-đẹp tùy người đối diện?), không giống như anh trai của bạn Hồng đang là lính đi bắt gió gởi mây, và Hoàng Mai thì suốt ngày ca tụng lính pháo binh, vì có người anh trai đang làm huấn luyện viên ngoài đó. Nhưng mặc cho các bạn chê, khen, tôi vẫn cứ chọn lính Hải Quân làm... thần tượng!

Nhưng nghĩ mãi vẫn chưa ra cách nào để làm quen, bảo bạn giới thiệu thì quê quá, lỡ “muốn người ta mà người ta không muốn!” chỉ còn có nước “xách xe đạp cà tàng đi xuống đi lên” mà thôi, hổng lẽ xuống bãi biển đi lớ ngớ, xem có chàng nào cũng xớ rớ như mình, làm bộ trợt té chân xuống nước cho chàng tới cứu, cải lương qúa độ. Rồi chẳng lẽ ra phố Độc Lập, cứ đi xuống đi lên, rồi đụng đầu làm bộ đau chân để làm quen, nghĩ tới mà ể mình. Có một vài dịp theo ban báo chí nhà trường vào quân trường bán báo thì có mấy bà cô kè kè bên nách, thiệt hết cách!

Ấy vậy mà tôi được bạn của anh Tùng chọn giữa đám con gái choai choai trong bữa tiệc sinh nhật của nhỏ Minh mới là lạ, chàng Hải Quân trung úy vừa được đổi về quân trường sau những năm đi lách lòn trong sông rạch. Chàng (xin miễn nêu tên) có nước da ngâm ngâm, nhưng nụ cười thật sáng, và đôi mắt biết cười, mấy đứa bạn rù rì phê bình sát ván. Thu Cúc, Nguyên Hương cứ tức anh ách, vì chúng nó đẹp gái, con nhà giàu nhưng có điều học dở và không hát được như tôi. Không hiểu sao bữa đó tôi chọn bản “Biển Tình” của nhạc sĩ Lam Phương, hát lên nghe cũng hợp tình hợp cảnh ớn. Rồi thì chàng tình nguyện song ca với tôi bài “Trăng Rụng Xuống Cầu” của nhạc sĩ Hoàng thi Thơ, tôi khoái quá trời, có điều hát xong, tụi bạn bảo tôi với chàng song ca sao giống cặp Ngọc Cẩm+Nguyễn Hữu Thiết! (?)

Rồi chàng kể chuyện đi tàu, lối kể chuyện giọng miền Nam sao hấp dẫn lạ (tôi nghĩ vậy), thỉnh thoảng chàng pha trò nên cả bọn cứ lăn ra mà cười. Nói rồi chàng thòng một câu cảnh cáo: “Mấy cô đừng tin vào sự tưởng tượng của mấy ông nhạc sĩ, văn sĩ mà mê cuộc sống bồng bềnh của lính Hải Quân (chàng nói khiến tôi hơi nhột). Đi biển mà gặp sóng to gió lớn thì người hùng cũng có thể ngất ngư, chứ ở đó mà tìm hoa sóng về tặng em. Còn đi trên sông rạch hả, có bữa cũng bị VC nó... rượt chạy trối chết, cực lắm mấy cô ơi!” Và tối hôm đó, tôi đã nằm mơ thấy chàng nắm tay tôi đi vào một khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, có trăng sáng lung linh, vắt ngang qua dãi Ngân Hà. Ôi sao mà tình tứ qúa!


Bạn Minh cho tôi một lô hồ sơ lý lịch, tướng mạo quân vụ của chàng, tôi yên chí lớn, mạnh dạn bước vào con đường tình yêu. Mộng quen lính Hải Quân giờ đã thành sự thực nên tôi yêu đời dữ, thấy mình thông minh hơn, nên kỳ thi tốt nghiệp tôi đậu trót lọt. Nhà tôi ở cạnh Nhà Thờ Núi, mỗi sáng tinh mơ, tiếng chuông nhà thờ đổ đồn những hồi chuông, báo hiệu một ngày mới, thành thói quen, thì mỗi chiều chàng cũng ghé đến nhà tôi trở thành thông lệ. Ôi cái thuở ban đầu lưu luyến ấy nó đẹp như mơ, chưa chắc tiểu thuyết của Quỳnh Giao đã có những đoạn tả tình đẹp bằng tình của tôi đối với người hùng lính biển.


phố Độc Lập NT
Tôi đã có những buổi tối ngồi sau chiếc xe Honda (hơi cũ) dạo phố Độc Lập, rồi lang thang xuống bãi biển hứng gió đêm, uống nước dừa, có khi xơi… hột vịt lộn, có lúc ngồi nhìn trăng lên cứ ngỡ mình là thi sĩ, cũng bày đặt “tung” ra vài câu thơ, nhưng vần điệu chắc chẳng giống ai, rồi cũng ngâm nga bài “Hoa Biển” cho ra vẻ ta cũng thuộc bài hát của binh chủng chàng. Ấy những ngày tháng yêu đương, cuộc đời tình ái của những kẻ đang yêu cứ loanh quanh, lẩn quẩn ở quán kem Màu Hồng, quán Fuzi, quán Chiều Tím, quán nem Ninh Hòa ở đường trần quí Cáp.
Các rạp xinê thì Minh Châu, Rạp xi nê Tân Tân chuyên chiếu phim Âu Mỹ, rạp xi nê Tân Tiến chuyên chiếu phim Ấn độ hoàn toàn nói tiếng Việt Nam do hãng phim Mỹ Vân chuyển âm, và mấy chỗ đông người ở đường Độc Lập, Phan Bội Châu, đến mấy quán chè để làm khách hàng thường trực. Chàng Hải Quân Trung úy của tôi coi mòi cũng lậm tôi dữ, chàng bèn đưa tôi qua Tháp Bà xin xăm, để xem tình duyên gia đạo có cơ phát triển (?), chàng sẽ về nhà xin phép ông bà già mua tặng tôi ít phong pháo nổ vang trước cửa nhà cho vui. Đâu đó xong xuôi tôi kể như được làm quan tắt trong một sớm một chiều. 
 

Đi lính mấy năm trời cực nhọc trăm bề, cái chết cứ cận kề mới gắn được lon Trung Úy, còn tôi mới quen chàng sơ sơ một năm hơn mà sắp được làm quan bà, bộ không sung sướng lắm sao? Nhứt là bộ vó của ông bà Bô cũng không lấy gì làm hắc ám. Ôi cuộc đời khi ta yêu cái gì chung quanh cũng màu hồng ráo trọi, nó dễ thương vô vàn. Vả lại ông trời đã ban sẵn cho tôi một trí tưởng tượng phong phú nữa mới là tuyệt diệu. Nào là hình ảnh một mái nhà gạch đơn sơ (không có nhà tranh ở thành phố đâu à) có giàn hoa tim tím leo quanh cánh cổng khép hờ, đang nhốt hai quả tim chưa bao giờ ngừng đập. Còn những thứ lỉnh kỉnh bên trong nhà thì khỏi tả cho đỡ tốn giấy. Rồi chiều chiều tôi ra ngõ đón chàng về từ trung tâm huấn luyện, trên chiếc Honda 90 phân khối, dù chàng có bị mồ hôi muối toát ra qua bộ đồ lính suốt ngày giang nắng gió, tôi vẫn ôm lấy chàng, miệng không ngớt khen chàng vẫn còn thơm cho chàng mát dạ. Rồi thì bữa cơm chiều có đủ thịt, cá, muối, dưa (lúc đầu tháng còn tiền, chứ cuối tháng thì coi mòi hơi... thiếu). Ôi! Tôi vẽ ra nhiều thứ lắm, đời đẹp vô vàn, nếu một ngày...

*****
Người đàn bà đến gõ cửa nhà tôi cũng vào một buổi chiều đẹp nắng (Nha Trang mà, lúc nào chẳng nắng đẹp!) Nhìn cái rope ngắn cũn cỡn và lối trang điểm của bà ta, tôi cũng đoán sơ sơ bà ta thuộc hạng người nào. Mới đầu tôi ngỡ bà gõ lộn cửa, nhưng không, bà ta hỏi đúng tên tôi trời ạ, bà ta đứng chống nạnh, mắt long lên, miệng hả to sừng sộ hỏi tôi biết bả là... ai không? (Chưa nói sao biết!). Rồi bà tự giới thiệu là vợ của chàng, hai người đã là vợ chồng và đã có một con. Thấy tôi chưa tin, bà ta còn hét toáng lên sao tôi đi “cướp chồng bà”, và rồi bà đưa tôi xem tấm hình của chàng, chụp trên boong tàu đâu hồi nẳm, nhưng vẫn đích thị là chàng.


Tôi thấy đầu óc hơi choáng váng, có lẽ bà nhìn thấy mặt tôi tái ngắt, hay tím rịm cũng không chừng, bà bèn đổi sang chiêu: khóc. Bà ta sụt sùi khóc lóc kể lể tựa hồ như cha vừa mới chết, cái đám con nít trong xóm tôi vốn dĩ tò mò, bây giờ được xem kịch sĩ trổ tài mà không cần mua vé nên cứ ùn ùn kéo đến. Sân nhà tôi đông ơi là đông, nhưng lỗ tai tôi đã bị lùng bùng rồi. Pháo kích, lựu đạn, cốt mìn tôi đã từng nghe nổ, nhưng chẳng hề hấn chi. Động đất, núi lửa vẫn có cơ may chạy thoát, thậm chí bom nguyên tử nổ cũng có cơ hội sống còn, còn quả bom bà ta mang đến nhà tôi, đã làm tôi nổ đom đóm mắt, thủng màng nhĩ rồi trời ạ, tim tôi thủng mấy lỗ rồi. Tôi đứng chết trân nhưng vẫn mơ hồ thấy chiếc Honda của chàng trờ tới cửa, rồi vọt đi, bà ta vội vã chạy theo. Và tôi, xin miễn đeo nhẫn của chàng từ đó. Rõ là vô duyên!



Ngày tháng đong đưa, chuyện tình chàng lính biển dần dần đi vào dĩ vãng, tôi cũng vẫn lang thang trên phố biển Nha trang, và rồi một hôm tôi đươc vợ chồng anh Phạm Tấn Ph. (anh đã quy tiên rồi) mời đến thăm nhà, Anh Chị vừa mới đổi về dạy học tại Nha Trang, sau nhiều năm trấn thủ tận trường trung học Kiến Hòa. Anh mới mua căn nhà ở đường Bá Đa Lộc, nên tổ chức ăn mừng tân gia. Trong đám thực khách đông đúc, cũng có vài bộ lễ phục trắng phau, là học trò cũ của anh từ miền xứ dừa ra học. Và tôi, cũng lại lọt vào đôi mắt cận thị của chàng SVHQ, nên chàng ta cứ theo hỏi đủ thứ chuyện. Tôi biết mình vô duyên với lính biển, lại sợ nổ đùng đùng, nên cũng lơ lơ, nhưng cuối tuần nào chàng cũng ghé thăm (chắc tại không biết đi đâu vì lỡ làm con ba phước?). Thôi thì cứ chuyện trò cho qua ngày tháng.

Rồi mùa hè đến, anh chị Ph. định tổ chức một buổi Picnic ở Hòn Tre, anh thì lo đi mướn ghe, đám đàn bà con gái lo bánh trái, rau sống, nước chấm và anh Tr. sẽ làm món gỏi cá tại chỗ. Và cá, dĩ nhiên sẽ được đánh ngay ngoài biển bằng... lựu đạn. Chàng SVHQ xung phong đảm nhận (vì chàng có bạn đang làm HLV ngoài Đồng Đế, xin lựu đạn không mấy khó).

Sáng Chủ nhật trời trong, gió mát rồi cũng đến mau, người nào cũng náo nức trong lòng, tưởng tượng bãi cát êm, biển thưa người với vô số dã tràng, vỏ sò, vỏ ốc đẹp, bỏ lại sau lưng thành phố náo nhiệt ồn ào, nên cứ cười nói huyên thuyên. Chiếc ghe nhỏ xuất phát từ bến Cầu Đá ra khơi xuôi chèo mát mái, hình bóng đảo Hòn Tre đã thấp thoáng xa xa, mấy chị, mấy cô trông mau tới bờ để tìm bóng mát mà trú, vì có vài chị hơi ngất ngư vì sóng, mấy anh thì thao thao bất tuyệt về món gỏi cá đặc sản của Nha Trang.

Bỗng một tiếng nổ... bùm, cả một vùng nước biển giao động mạnh, chiếc ghe nhỏ lao đao, chao mạnh sắp nghiêng, tiếng la chới với, bà con hốt hoảng đổ nhào qua hướng ghe nghiêng, mấy anh hét toáng lên bảo níu lấy be ghe, vài anh nhảy ùm xuống nước níu vội chiếc ghe, nên cuối cùng chiếc ghe con đã trở lại thăng bằng mà không bị lật. Nhưng chiếc ghe con đã không bao giờ đến được bến Hòn Tre, vì mấy chị nhất định đòi về sau cơn chết hụt, mặt mày tái ngắt tái ngơ, gỏi cá tạm ăn tưởng tượng, vỏ ốc, vỏ sò khỏi tìm cho mất công. Hỏi ra mới biết tại chàng SVHQ sơ ý, chưa biết cách quăng lựu đạn xuống nước như thế nào mà “bốc ẩu” làm như rành lắm.

Buổi du ngoạn cũng tan theo tiếng nổ, và chàng SVHQ hình như bị quê nên đã đổi ngành sang “thợ lặn”, và tôi không còn dịp gặp lại chàng lần nào nữa. Rõ là vô duyên đối diện nổ đùng đùng!!!